Võ Nguyên Giáp - Người thực hiện chiến tranh cách mạng chống Pháp
•Hãy trở lại ít lâu trước thời gian bản lề năm 1946. Một cuộc chiến tranh đã bắt đầu. Thế nhưng, các ông phải đương đầu với một quân đội cơ giới hóa, hùng manh về mọi mặt so với các ông. Về phần mình, ông có những gì?
-Vềsốlượng, lực lượng hai bên gần như cân bằng:đốimặt với 90.000 quân Pháp, chúng tôi có một số lượng chiến sĩ gần như thế. Nhưng chúng tôi có quá ít vũ khí! Vài nghìn khẩu súng. Tất nhiên là hơn nhiều so với hồi tháng 12-1944, khi tôi cho đội Tuyên truyền vũ trang đầu tiên đi đều bước. Cũng hơn nhiều so với tháng Tám 1945. Nhưng vũ khí của chúng tôi hỗn tạp. Và nhất là không đủ: ba người mới có một người được trang bị tử tế, dù còn lâu mới có được những vũ khí hiện đại như của Pháp. Ngay cả những đơn vị được trang bị tốt nhất cũng không có được một súng tự động cho hai chiến sĩ! Quả thật chúng tôi đãlập nên một ngành công nghiệp vũ khí, giữa rừng sâu, nhưng với những phương tiện khiêm tốn.
•Đúng là quá ít, như vậy đối với bên ngoài, người ta không thể hình dung một lối thoát nào khác là các ông sẽ bị đè bẹp. Hơn nữa, các ông lại bị cắt đứt với bên ngoài, về chính trị không một nước nào thừa nhận Nhà nước các ông. Về quân sự, các ông không trông chờ được sự trợ giúp nào. Hồng quân Trung Hoa ơ cách xa căn cứ cấc ông hàng nghìn cây số. Trước khi gặp ông, tôi vừa đọc lại lời kêu gọi của Hồ Chí Minh, ngày 20-12-1946, trong ngày đầu kháng chiến. Tôi luôn luôn có một sự kinh ngạc với lòng cảm phục, khi đọc những dòng đó. Ở đây có một sự tự tin bình tâm, một thứ thanh thản, một niềm tin vào thắng lợi cuối cùng.
- Về mặt lý thuyết quân sự cổ điển, đúng là chúng tôi không có một tương quan lực lượng có lợi, chúng tôi không có những điều kiện cần thiết để tiến hành đấu tranh. Nhưng nói rằng “về quan điểm lý thuyết quân sự cổ điển” có ý nghĩa gì? Năm 1946 chúng tôi vừa trải qua một thời kỳ hưng khởi trong đó dân tộc chúng tôi đã chứng tỏ được sự trưởng thành, lòng quyết tâm tranh đấu, hy sinh tất cả khi cần để cứu vãn nền độc lập của dân tộc. Chúng tôi đã có 5 năm ở chiến khu, trong thời gian đó lực lượng chúng tôi đã tăng trưởng, các chiến sĩ đã dày dạn kinh nghiệm. Đến cuối năm 1946, chúng tôi hoan toàn khác mùa hè năm 1945, khi nổ ra cách mạng. Chúng tôi đã tăng cường lực lượng chính quy. Cho nênkhông phải là huênh hoang - Chủtịch của chúng tôi không bao giờ huênh hoang - mà là dựa trên tình hình thực tế để chúng tôi quyết định tiến hành cuộc kháng chiến trên khắp cả nước, với niềm tin vững chắc vào thắng lợi cuối cùng. Đấy là tất cả những gì ông tìm thấy trong lời kêu gọi ngày 20-12. Vào tháng 3-4/1947, chúng tôi đã di chuyển tất cả các cơ quan, tất cả chính phủ, và cả một phần thiết bị công nghiệp lên Việt Bắc. Chính phủ chúng tôi, bộ tham mưu, được đưa vào nơi ẩn náu. Cuộc sống lại tiếp tục, chỉ khác là lâu lâu có báo động do máy bay địch tập kích. Nhưng chúng tôi bảo đảm những việc chủ yếu, trong đó có mở trường học và bệnh viện. Ông có thể tưởng rằng làm sao chúng tôi có thể chấp nhận hy sinh như vậy nếu không thực sự tin vào “kháng chiến trường kỳ”?
•Hơn nữa ở phía bắc, quân đội Tưởng Giới Thạch đã lập rào ngăn cản khi các ông có ý đồ vượt qua biên giới.
- Cho đếnđầunhững năm 50, chúng tôi bị kẻ thù bao vây. Phía bắc, đúng là Tưởng Giới Thạch. Trên phần lớn lãnh thổ Việt Nam, là quân viễn chinh Pháp. chúng tôi không có liên hệ, không có sự viện trợ của thế giới xã hội chủ nghĩa. Thế nhưng chúng tôi vẫn trụ được. Mà cách mạng được tăng cường. Mà quân đội vẫn lớn mạnh. Ngay từ mùa hè đầu tiên, năm 1947, chúng tôi đã có 120.000 người trong quân đội chính quy. Không những chúng tôi có nhiều trung đội, mà còn có những tiểu đoàn gồm nhiều đại đội. Và ngay từ trước năm 1950, chúng tôi đã có thể tổ chức một đại đoàn, Đại đoàn 308 anh hùng và nổi tiếng, gọi như vậy vì nó ra đời ngày 30-8. Đó là cái làm nên sức mạnh của chúng tôi, cho phép chúng tôi tin chắc vào thắng lợi cuối cùng, đó là sự đoàn kết và anh hùng của nhândân chúng tôi, đó là sức mạnh lớnlao của chiến tranh nhân dân. Ôngcó biết rằng khi chúng tôi đưa ra lời kêu gọi xây dưng dân quân tự vệ, chỉ trong vài tuần lễ đã có một triệungười tình nguyện gia nhập? Đấy làlời giải thích cơ bản cho mọi thắng lợi của chúng tôi trong 40 năm qua.
• Người ta thật khó mà tưởng tượng cuộc sống của ông được tổ chức như thế nào...
- Chúng tôi đã có một số thói quen về cuộc sống ở vùng cao, mà chúng tôi đã trải qua từ năm 1941 đến năm 1945. Bản thân Bác Hồ, sau nhiều lần thay đổi chỗ ở,đã trở về Tân Trào, nơi chúng tôi trước đây đã thành lập tổ chức Việt Minh.
• Các ông đi lại như thế nào chẳng hạn?
- Có lẽ chúng tôi là thành viên của chính phủ duy nhất trong lịch sử chỉ có một chiếc xe hơi! Đó là một chiếc xe Ford cũ, tịch thu được ở Hà Nội tháng 12 năm 1946. Hồ Chủ tịch có sử dụng vài lần, nhưng nó luôn luôn bị pan! Cho nên mọi người đều đi lại bằng ngựa hay... đi bộ!
•Trong chiến dịch Léa, các nhà sử học phương Tây khẳng định rằng quân viễn chinh đã suýt tóm được Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (DCCH).
- Các nhà lãnh đạo đã tìm được nơi trú ẩn kịp thời, trừ tham mưu trưởng Hoàng Văn Thái và Tổng Bí thư Trường Chinh, đang ởBắc Cạn khi nổ ra cuộc tần công. Hôm đó, đúng là hai đồng chí của chúng tôi bị đe dọa lớn. Phải nói rằng cơ quan tình báo chúng tôi chưa có hiệu quả lắm. Chúng tôi thiếu phương tiện và chuyên viên.
• Như vậy là trong 3 năm ròng, các ông đã phải đương đầu với quân đội một nước lớn phương Tây bằng chính lực lượng của mình. Tuy nhiên, trong năm 1949, lực lượng đối sánh đã thay đổi ở Trung Quốc, nghiêng về phía Hồng quân.
- Chúng tôi đã có quan hệ từ rất sớm. Đầu năm 1948, Chu Ân Lai cử một phái viên đến gặp chúng tôi. Đó là đồng chí Trương Điền. Nhưng lúc đó, chưa ai hình dung Hồng quân sẽ đánh bại quân Quốc dân đảng vào cuối năm 1949. Mùa xuân năm đó, vẫn còn những nhóm cộng sản Trung Hoa bị đàn áp, phải lánh nạn sang đất chúng tôi.
•Các ông đã gặp các đồng chí Trung Quốc từ lúc nào?
- Vào cuối năm đó, năm 1949.
• Điều đó đã làm thay đổi tất cả?
- Có... và không. Chớ quên rằng trước thời gian đó, chúng tôi đã dần dần đạt đến chỗ cân bằng lực lượng. Chính chúng tôi, và chỉ mình chúng tôi, đã làm quân Pháp nguy khốn. Chúng tôi, và chỉ mình chúng tôi đã buộc chứng phải rút khỏi Bắc Cạn. Đến nỗi các nhà lãnh đạo chính trị và quân sự Pháp phải đặt ra những câu hỏi chủ chốt. Chính tháng 5-1949, chính phủ phải cử tướng Revers đi thanh tra. Ông này từ Đông Dương trở về với một bức tranh rất bi quan. Chớ quên rằng ông ta là người chủ trương rút các vị trí Pháp trên tuyến từ Đồng Đăng đến Móng Cái.
• Điều đó có nghĩa là rút khỏi Cao Bằng.
- Đúng! Hơn 2 năm sau những cuộc tấn công lớn của quân viễn chinh, lời thú nhận bất lực đã rõ ràng! Như vậy, sự thay đổi lực lượng đối sánh là việc đã đạt được trong năm 1949. Vả lại tất cả ý nghĩa của báo cáo Revers là: Lần đầu tiên bộ chi huy tối cao Pháp thừa nhận rằng họ không thể chiến thắng trong cuộc chiến này.
• Đúng thế. Nhưng hãy quay trở lại ý nghĩa của chiến thắng Trung Quốc đối với sự nghiệp của các ông.
- Việc quânđộicộngsản TrungQuốc đến biên giới chúng tôi, việc Bắc Kinh, Mạc Tư Khoa và các nước xã hội chủ nghĩa công nhận nước Cộng hòa dân chủ chúng tôi, rõ ràng là những sự kiện nổi bật. Vòng vây đã bị phá vỡ. Sự cân bằng lực lượng đã đạt được, như tôi đã nói, từ đấy chỉ phát triển có lợi cho chúng tôi.
• Đấy là lúc mà Chủ tịch Hồ Chí Mình đã chọn để đi Bắc Kinh, rồi Mạc Tư Khoa.
- Tình hình mới cần phải được làm sáng tỏ. Các đồng chí của chúng tôi, nhất là các đồng chí Xô Viết, không biết nhiều điều về cuộc cách mạng và kháng chiến của chúng tôi. Ngay lập tức sau khi công nhận nước Việt Nam DCCH, Hồ Chủ tịch đi gặp các đồng chí lãnh đạo Trung Quốc và Liên Xô. Ở Mạc Tư Khoa, ông gặp Stalin. Ông này phê bình Hồ Chủ tịch đã gác lại cuộc cải cách ruộng đất quá lâu. Ông chỉ cho Bác hai cái ghế. Ông ta nói: “Một là của địa chủ. Ghế kia là của nông dân nghèo. Đồng chí sẽ ngồi lên ghế nào?”
• Cho phép tôi có một nhận xét. Tôi lấy làm lạ rằng trong khi nhân dân các ông đang tiến hành một cuộc đấu tranh khó khăn như vậy chống một nước tư bản chủ nghĩa lớn, mà phản ứng đầu tiên của Stalin là khiển trách sự “chậm trễ” đó, không cần tìm hiểu thực tế xã hội Việt Nam.
- Đấy là giọng nói của thời đó. Phải nói rằng các đồng chí Xô Viết lúc đó lo toan nhiều đến tình hình xảy ra ở châu Âu. Có thể nói họ coi nhẹ châu Á không? Có lẽ thế. Một giai thoại: trong một buổi làm việc, Hồ Chủ tịch yêu cầu Stalin ký tặng cho một tờ tạp chí Xô Viết, trên đó có chân dung của ông ta. Stalin đã làm, còn có vẻ thân ái nữa. Hồ Chủ tịch để tờ báo trong phòng mình. Ngày hôm sau, nó đã biến mất...
• Có lẽ ông ta nghi ngại người cộng sản hơi thiếu điển hình đó... Ông ta còn nói gì nữa?
- Không có gì nhiều. Một hiệp định đưọc ký để Liên Xô cung cấp cho chúng tôi súng phòng không, xe vận tải “Molotova” và thuốc men. Thực ra, có lẽ Stalin coi việc giúp Việt Nam đúng ra là thuộc về Trung Quốc. Và sự thật là ở Bắc Kinh, Hồ Chí Minh đạt được nhiều hơn: một sự viện trợ vũ khí nhẹ, trang bị, sự có mặt của cố vấn Trung Hoa, việc huấn luyện một số binh sĩ chúng tôi trên đất Trung Quốc. Hỏa lực của chúng tôi về cơ bản được cải thiện.
• Các cố vấn Trung Quốc được tuyển dụng ở cấp độ nào?
- Trong chuyến đi Trung Quốc, Bác Hồ chúng tôi gặp lại người bạn chiến đấu cũ là Trần Canh, ông đã quen từ năm 1924, khi cả hai còn làm việc trong phái bộ Borodine, trưởng đoàn chuyên gia Xô Viết cạnh Quốc dân đảng. Mối quan hệ bạn bè, hữu nghị đã kết nối giữa hai người. Khi vấn đề cử cố vấn Trung Quốc được đặt ra, tất nhiên Bác chúng tôi đưa ra cái tên Trần Canh. Người Trung Quốc đề nghị giao việc chỉ đạo phái bộ cho La Quí Ba, ủy viên trung ương đảng. Còn có Vi Quốc Thanh, trưởng đoàn cố vấn quân sự, Mai Gia Sinh, Mã Xifu. Trần Canh không có chức danh chính thức, nhưng có uy tín rất lớn, nên được đưa đến làm việc cạnh Bác Hồ. Phái đoàn đến Việt Bắc tháng 6-1950.
• Bây giờ chúng ta đi đến biểuhiện nổi bật đầu tiên của sự cân bằng lực lượng đó, “chiến dịch biên giới” mà các nhà sử học Pháp còn gọi là “cuộc chiến Đường số 4”.
- Sau thắng lợi của cách mạng Trung Quốc, tự nhiên chúng tôi có mục tiêu phải xây dựng một khu vực liên lạc trực tiếp và dễ dàng với Trung Quốc. Trong thời gian đầu, chúngtôi nhắm vào vùng Lao Cai. Rồi sau khi hỏi ý kiến Chủ tịch Hồ Chí Minh, chúng tôi xác định mục tiêu là Cao Bằng. Tôi đã nói với ông, bộ tham mưu Pháp đã dự kiến rút bỏ Cao Bằng từ chuyến viếng thăm của Revers. Đấy đã là lới thú nhận ghê gớm của sự bất lực! Tỉnh lỵ nằm ở vùng tận cùng phía đông - bắc của đất nước, có biên giới chung với tỉnh Quảng Tây. Từ đó, chúng tôi có mối liên lạc trực tiếp và nhanh chóng với cả thế giới bên ngoài.
Cuộc tấn công đầu tiên nổ ra ở Đông Khê và Thất Khê. Nó như là một cái bẫy giăng ra cho quân địch. Chúng sẽ làm gì? Thu hồi các vị trí đã mất là một vấn đề. Nhưng không hành động có nghĩa là Cao Bằng sẽ bị cô lập. Tôi đã phác họa chiến thuật như vậy: giành chủ động, dũng cảm, rồi buộc kẻ địch phải chọn giữa hai giải pháp xấu!
Việc gi phải xảy ra đã xảy ra. Đại tá Charton, chi huy căn cứ Cao Bằng, buộc phải rút quân mà không có một đảm bảo nào tiếp xúc với các lực lượng khác của Pháp do đại tá Lepage chỉ huy. Đấy là một trận giao chiến gay go trong rừng, giữa rừng cây dày đặc, mà đôi khi các đơn vị chỉ có thể hành tiến vài trăm mét trong một giờ. Tất cả các người lính, đều biểu hiện lòng dũng cảm. Nhưng quân đội chúng tôi có tinh thần cao hơn. Cuối cùng, Charton, rồi Lepage đều bị buộc phải đầu hàng.
•Nếu rút khỏi Cao Bằng là một mục tiêu, thi việc rút bỏ Lạng Sơn có phải là điều bất ngờ không?
- Cầnphảinói rõrằng,trước đấy chưa bao giờ bộ tham mưu Pháp nghĩ đến điều đó. Revers chẳng hạn, là người chủ trương rút khỏi Cao Bằng, nhưng lại lấy Lạng Sơn làm điểm cố thủ. Nhưng sau những chiến thắng đầu tiên trên Đường số 4, nếu tinh thần chúng tôi cực kỳ lên cao, thì tinh thần quân Pháp đột nhiên bị sa sút. Đại tá Constans, sợ vòng xoáy thất bại, phải rút khỏi Lạng Sơn. Trong chưa đầy hai tuần, vùng tự do của chúng tôi đă trở thành một khối vững chắc. Trên hàng nghìn cây số vuông, không còn thấy bóng dáng quân Pháp.
•Có thể nói chiến dịch biên giới đó là một bước ngoặt của chiến tranh không?
Tôi nói: “một bước ngoặt”.
•Trong cuộc đời mình, ông đã đối đầu - và đánh bại! - nhiều tướng lĩnh phương Tây. Tôi muốn ông nói về một trong những người đó, một trong những người nổi tiếng nhất, de Lattre de Tassigny. Không một ai như ông ta, khi còn sống lại có một uy danh như vậy, và nhất là sau khi qua đời vào tháng Giêng năm1952, chỉ sau 13 tháng cầm quyền tổng chỉ huy ở Đông Dương, ở phương Tây, có người đánh giá rằng, nếu ông ta còn sống, chiến tranh Đông Dương sẽ diễn ra cách khác. Ông nghĩ như thế nào?
- Tôi biết huyền thoại đó. Vì đó là một huyền thoại. De Lattre, giống như mọi viên tướng thực dân và đế quốc, đã thất bại ở Việt Nam. Và ông ta không thể làm khác. Hãy lấy chiến dịch Hòa Bình. Khi vào năm 1951, de Lattre quyết định mở một chiến dịch không vận, cả phương Tây kêu gào lên đó là một việc thần kỳ: “Quân viễn chinh đang giành lại thế chủ động”. Nhưng quân Pháp tìm thấy những gì? Một thành phố bị phá hủy, dân chúng bỏ đi. Chiến thắng tuyệt đẹp! Mặc dầu những nhật lệnh thắng lợi đưọc ban bố, de Lattre chỉ bắt được gió. Nhưng có lẽ ông ta lấy cái chủ động đó để minh chứng cho những khoản tiền vay mà người Mỹ đổ ra lúc đó. Quân đội chúng tôi không đề kháng, nhưng đã tập hợp lực lượng lại để phản công ở nơi nào và lúc nào do chúng tôi quyết định. Hơn thế nữa, chúng tôi lợi dụng tình hình đó để thâm nhập sâu hơn xuống đồng bằng châu thổ, mà quân viễn chinh, do phải tập trung lực lượngởHòa Bình, phải nới lỏng sự kiểm soát, về mặt chiến lược, chúng tôi đã làm chủ tình hình. Chúng tôi chiến thắng hai lần. Ở đồng bằng và ở Hòa Bình. Thành phố bị “chiếm đóng” đó, chúng tôi sẽ biến nó thành cứ điểm cố thủ. Chúng tôi phản công vào thời điểm do chúng tôi chọn. Lúc đó, bộ tham mưu Pháp bị đặt trước hai sự lựa chọn: hoặc rút lui (nhưng để giữ trong vài ngày một nơi bị bỏ trống?), hay là cố thủ, và có nguy cơ bị quét sạch, trong một thời gian ngắn hay trung bình. Đúng là vào lúc đó de Lattre bị đau nặng, và chính Salan, người phụ tá, về sau là người kế nhiệm, đã phải làm công việc cực nhọc đó. Cuối cùng, khi Salan buộc phải ra lệnh rút khỏi Hòa Bình vào tháng 2-1952, de Lattre vừa mới qua đời. Nhưng nếu ông ta sống thì sự việc vẫn cứ diễn ra đúng như thế. Ông ta chỉ đơn giản là phải gánh trách nhiệm của chiến dịch. Đồng thời, de Lattre là người mở đầu công cuộc “Việt Nam hóa” chiến tranh. Chính ông ta là người khơi mào sắc lệnh “tổng động viên” do Bảo Đại ban hành năm 1951. Mục tiêu của ông ta đơn giản: đối phó với khó khăn ngày càng tăng trong việc tuyển mộ quân viễn chinh ở chính quốc. Để làm việc đó, ông phải dùng mọi thủ đoạn: mị dân, bắt lính cưỡng bức, mưu đồ chia rẽ trong nội bộ nhân dân chúng tôi: giữa các dân tộc, giữa người lương và công giáo... Tuy nhiên, không cái nào đạt kết quả. Một ví dụ cuối cùng: “phòng tuyến de Lattre” nổi tiếng. Ý tưởng nảy sinhtrong đầu de Lattre về việc xây dựng một phòng tuyến nhằm ngăn chặn các chiến sĩ của chúng tôi chứng tỏ ông ta thực sự không hiểu tính chất cuộc chiến tranh mà ông đang đeo đuổi. Một sai lầm nghiêm trọng! Không thể ngăn chặn một cuộc chiến tranh nhân dân, khi mặt trận có ở khắp nơi, không giống như cuộc chiến tranh “cổ điển” khi phải củng cố một phòng tuyến rõ rệt ngăn cách hai đội quân xung đột nhau. Nhưng sai lầm lại được tái diễn về sau, do người Mỹ thực hiện với phòng tuyến McNamara nổi tiếng. De Lattre cố xây dựng uy danh của mình trên một phong cách mới. Nhung sự thật thì đằng sau cái đó, đã có cái gì?
(Từ trang 79-90. Tiếp theo là đoạn nói về Điện Biên Phủ đã đăng ở số trước)
Đào Hùngdịch








