Võ Nguyên Giáp một cuộc đời
Lời mở đầu
Đấy là tháng 3-1979, ở Hà Nội. Việt Nam đangtrảiqua thời khắc tồi tệ nhất trong lịch sử. Những hy vọng - có lẽ là quá mức - của mùa xuân 1975 không đem lại hiệu quả mong muốn. Quân đội Trung Quốc,vừamới bị thấttrận, vẫn đóng lại đe dọa trên biên giới phía bắc. NgườiViệt Nam đangởCampuchia, và dù họ cho rằng là để tự vệ chính đáng, vẫn không được dư luận quốc tế cảm thông. Phương Tây muốn Việt Nam phải trả giá đắt cho chiến thắng năm 1975, đã áp đặt cấm vận kinh tế và chính trị. Nước Pháp thời Giscard không phải là nước cuối cùng lên tiếng chỉ trích thuộc địa cũ của mình. Việt Nam đang phải đối đầu, mà hẳn là họ muốn tránh, với Liên Xô và khối Comecon - lúc này đã suy yếu, đang bước vào thập niên cuối của sự tồn tại.
Lúc đó tôi sống ở Việt Nam. Tôi là nhà báo, đặc phái viên thường trú báoL’Humanité.Nhưng được đào tạo thành nhà sử học và là nghề chính của tôi, tôi nhận thấy lễ kỷ niệm 25 năm chiến thắng Điện Biên Phủ (mồng 7-5) đang diễn raởchân trời. Sự thật thì đây là một trong nhiều động cơ hơn là một... cái cớ để xin gặp ông Võ Nguyên Giáp. Lời yêu cầu đượcchấp nhận. Vụ báo chí Bộ Ngoại giao cho biết: “Đại tướng rất bận. Đại tướng chỉ gặp ông trong một tiếng”. Tôi hiểu chữ “rất bận” đó là: Dù ông không còn là tổng chỉ huy quân đội Việt Nam, không nghi ngờ gì nữa, ông Giáp vẫn còn thường cho chỉ thị về những vấn đề quân sự trên biên giới phía bắc.
Hôm đó, đi qua một Hà Nội nghèo nàn, vẫn còn những chiếc xe đạp và các toa tàu điện cũ kỹ của thời thuộc địa, tôi nghĩ mình đang có cuộc hẹn với lịch sử. Thật vậy, nếu nói như thế có vẻ khoa trương, thì vẫn có một phần sự thật. Tôi không nhớ địa điểm chính xác của lần gặp đầu tiên đó. Ngược lại, tôi vẫn còn ghi trong ký ức hình ảnh đầu tiên: ông Giáp đứng phía trên bậc, tôi không thể rời mắt khỏi hình bóng ông trong khi bước lên. Cuộc gặpgỡđầu tiên thật nồng nhiệt. “Đại tướng chỉ có thể gặp ông trong một giờ”: vậy mà chúng tôi đã ở cùng nhau trong ba giờ. Chỉ có thể nói là đèn đã được bật. Hai bộ áo của tôi - nhà báo của tờL’Humanité,nhà sử học chuyên về chiến tranh Đông Dương lần thứ nhất - rõ ràng rất có tác dụng lúc này.
Như vậy là để kỷ niệm 25 năm Điện Biên Phủ. Và kỷ niệm lần thứ 50 cũng đã qua... Từ ba mươi năm nay, tôi đã gặp lại ông Giáp mỗi lần tôi đến Việt Nam, mà những lần đó rất nhiều. Chỉ có một ngoại lệ: tháng Giêng 2010, ông không thể gặp tôi vì quá yếu. Ông đang đến gần tuổi 100, mà ngày đó đã đi qua...
Mỗi lần gặp, tôi ghi chép, ghi chép. Tất nhiên, ý nghĩ về một công trình trao đổi đã hình thành. Điều đó không dễ. Giống như mọi người Việt Nam, cũng như những người cộng sản, ông Giáp không thích tự xưng “Tôi”. Đó không phải là sự khiêm tốn giả vờ: khi ông khẳng định “chính quần chúng đã làm nên lịch sử”, là một người mác xít, ông tin điều mình nói. Ông không phải là cha đẻ của Quân đội Nhân dân Việt Nam sao? Ông chẳng phải là người chiến thắng ở Điện Biên Phủ đó sao? Ông chẳng phải là nhà chiến lược trong chiến tranh chóng Mỹ đó sao? Hẳn là thế. Nhưng ông đã góp phần làm nên cái gì đó...
Phải nói đi nói lại nhiều lần để cho ông chịu nhập cuộc. Tiếp đấy, còn phải chờ để ông cho phép tôi công bố tài liệu này. Cái đó, giữa chúng tôi đã trở thành một đề tàiđùa cợt:
- Baogiờ?
-Trong thời gian thích hợp.
Trung thành với lời hứa, tôi chờ đợi khi thời gian đến.
Cuối cùng, phải cắt tỉa bớt. Cả phần rất đương đại - nói chung là sau năm 1975 - không thể đưa vào công trình này, ông Giáp vẫn luôn hoạt động, và thêm tuổi cao, không có thì giờ để đọc lại văn bản này.
Nhưng vậy, tài liệu này được ghi như nó vốn có.
Đấy là một tượng đài của lịch sử nói về mình. Tất nhiên, cách nói đó, được dùng quá nhiều, đôi khi đã làm hỏng. Nhưng chỉ cần suy nghĩ trong vài giây: Có người nào lại có thể hòa cuộc sống của mình vào biết bao sự kiện của lịch sử nhân loại, trong đó có lịch sử Việt Nam, ở thế kỷ XX, để trở nên một bộ phận cấu thành chủ chốt?§
Chú thích:
(*)VoNguyen Giap-Unevie. Propos recueillis par Alain Ruscio. Hanoi, 1979-2008,Nxb. Les Indes savantes, Paris, 2010 (122 trang).
Tác giả là tiến sĩ sử học, chuyên gia về lịch sử Việt Nam. Đã có những công trình như:
- Chiến tranhcủa “Pháp” ởĐông Dương (1945-1954).Nguồntư liệu. Thư mục.
- Điện Biên Phủ, huyền thoạivà thực tế 1954-2004(cùng vớiSerge Tignères).
- Lịch sử thuộc địa, phục hồi danh dự, xuyên tạc và dùng làm công cụ(cùng với Sébastien Jahan).








