Liên hiệp các hội và khoa học kỹ thuật Việt Nam
Thứ hai, 28/01/2008 15:22 (GMT+7)

Vị giáo sư hơn 50 năm "làm bạn" với trẻ em

Nghiêm khắc khi "đi buồng"...


Căn nhà rộng, ấm cúng trên phố Hàng Bài, nơi GS. Chu Văn Tường cùng phu nhân và các con, cháu sống quây quần "tứ đại đồng đường" bên nhau từ nhiều năm nay, như càng trở nên ấm áp hơn, đông hơn vì những ngày này luôn có tiếng nói của các học trò cưng đến thăm hỏi sức khỏe thầy, bởi GS. Tường đang đổ bệnh - căn bệnh của những người đã vào tuổi "thất thập cổ lai hy" thường gặp khi trái gió, trở trời. Có bệnh, ấy vậy nhưng ông vẫn dành thời gian để chia sẻ với chúng tôi những câu chuyện đời, chuyện nghề y, nhất là chuyên ngành nhi khoa mà ông đã gắn bó, đeo đuổi và yêu thương "nó" 60 năm qua... Trong đó, câu chuyện mà ông kể say sưa nhất, tự hào nhất vẫn là "nhà tôi có thể thành lập bệnh viện tư nhân được đấy, vì 9 người con dâu, rể và cháu nội, ngoại đang tiếp bước tôi làm việc trong ngành y ở các chuyên khoa khác nhau. Nội, ngoại, sản, nhi, rồi kỹ thuật viên, nữ hộ sinh, dược sĩ đều có cả".


GS. Chu Văn Tường kể rằng, ông đến với nghề y như một định mệnh của số phận. Số là, cách đây hơn 60 năm về trước, khi đó, cậu học sinh năm cuối Trường Bưởi, Chu Văn Tường về quê ở Phú Xuyên, Hà Tây thăm mẹ và em nhân ngày nghỉ, nhưng niềm vui chưa tròn, cậu đã thấy mặt mẹ buồn thiu bên cạnh em trai đang ốm, người gầy rộc vì bị tiêu chảy. Hai ngày sau, người em trai qua đời vì những kiêng khem theo quan niệm truyền thống và thiếu thông tin về cách chữa trị. Nhìn cảnh người mẹ như "quỵ" hoàn toàn và khóc nấc lên, rồi đứa em trai nằm đó bất động, cậu học sinh Chu Văn Tường đã quyết tâm phải thi đỗ trường y, để thành bác sĩ, mà nhất định phải là bác sĩ nhi để mang lại sức khỏe cho những đứa trẻ không may bị bệnh tật...


Ra trường, được vào làm việc tại Bệnh viện Bạch Mai, hằng ngày bác sĩ trẻ Chu Văn Tường và các đồng nghiệp phải khám bệnh cho rất nhiều cháu nhỏ. Khi đó, ở BV Bạch Mai, nhân lực về chuyên khoa nhi rất ít, có những ngày bệnh nhân đông quá, không đủ giường bệnh, các cháu nhỏ đã phải nằm nguyên trên cáng... Chính vì thế, bác sĩ trẻ Chu Văn Tường cùng một số đồng nghiệp đã tích cực đề xuất ban lãnh đạo BV tách Khoa Nội thành lập chuyên Khoa Nhi. Không chỉ được lãnh đạo BV ủng hộ mà bác sĩ Tường còn được tin tưởng giao làm Chủ nhiệm Khoa Nhi đầu tiên của Hà Nội thời đó. Năm 1968, Viện Bảo vệ và Chăm sóc Sức khỏe Trẻ em (tiền thân của Viện Nhi TW) được thành lập, GS. Chu Văn Tường trở thành Viện trưởng đầu tiên của Viện. Đến năm 1980, Viện Nhi được chuyển về BV Nhi Thụy Điển, GS. Tường vừa làm Viện trưởng kiêm Chủ nhiệm Bộ môn Nhi của Trường ĐH Y Hà Nội.


Là người rất nghiêm khắc với đồng nghiệp và cấp dưới, nên hồi còn là Viện trưởng Viện Nhi TW, GS. Chu Văn Tường luôn thường xuyên "đi buồng". Vốn rất điềm đạm và ít nói to, nhưng có lần "đi buồng", thấy một trường hợp bệnh nhân bị uốn ván nặng, hỏi y tá cụ thể thế nào, điều trị ra sao, nhưng y tá đó không nắm được, ông đã yêu cầu cô nghỉ làm một thời gian để kiểm điểm lại công tác chuyên môn. Sau "sự kiện" này, các y bác sĩ cũng như nhân viên y tế ở Viện Nhi TW đã rút kinh nghiệm, luôn nắm rất chắc tình hình bệnh nhân ở buồng bệnh mình đảm trách.


Và những chẩn đoán chính xác giành lại sự sống cho bệnh nhi...


Mỗi khi khám bệnh cho các cháu nhỏ, GS. Chu Văn Tường thường rất tỉ mỉ và cẩn thận. Với ông không có gì vui bằng khi phát hiện ra một chi tiết nhỏ, một biểu hiện mới để chẩn đoán đúng bệnh nhằm điều hòa quy luật chữa trị hiệu quả cho bệnh nhi...


Nhiều thầy thuốc ở Khoa Tiêu hóa, BV Nhi TW vẫn nhớ chuyện xảy ra từ vài năm trước của một bệnh nhi bị nhiễm khuẩn huyết rất sớm, khi được đưa đến BV, bệnh của cháu bé đã rất nặng và có nguy cơ không qua khỏi. Thế nhưng qua thăm khám và bằng kinh nghiệm lâm sàng của người thầy thuốc đã trải qua nhiều trường hợp bệnh nhi mắc căn bệnh khó, GS. Chu Văn Tường khẳng định "đứa trẻ này bị mắc bệnh lao bẩm sinh". Sau khi y tá của khoa đến tận nhà bệnh nhi hỏi, kết quả đúng là gia đình đứa trẻ xấu số có tiền sử bệnh lao và người mẹ của bệnh nhi đã được khuyên nên đến Viện Lao chữa trị. Rồi có trường hợp một bệnh nhi bị viêm gan, thiếu máu, người gầy đét, đã được chẩn đoán ung thư gan, nhưng sau vài lần thăm khám, GS. Chu Văn Tường "buông" một câu "trường hợp này có thể chỉ bị tắc tĩnh mạch trên gan". Câu nói ngắn gọn của ông đã như một liều thuốc "nâng đỡ tinh thần" cho người mẹ đứa trẻ bởi chị đã suy sụp hoàn toàn khi sống trong nỗi ám ảnh mất đứa con thân yêu. Đứa trẻ được đưa đi mổ. Tròn một tuần sau, điều kỳ diệu nhất đã xảy ra: người mẹ kia được ôm con về với nụ cười viên mãn...


Ngoài làm việc chuyên môn của một bác sĩ, ông còn say mê nghiên cứu khoa học về chuyên ngành nhi. Đến nay, "tài sản" ông tích lũy được là gần 70 công trình nghiên cứu khoa học mà ông chủ trì hay tham gia với cộng sự đều mang ý nghĩa xã hội cao như suy dinh dưỡng, sốt xuất huyết, viêm não Nhật Bản, tai nạn thương tích ở trẻ em... Đặc biệt, tại hội nghị về tai nạn trẻ em được tổ chức ở Australia , bản tham luận về đề tài này của ông đã được các đồng nghiệp nước ngoài đánh giá cao. Bên cạnh đó, nghiên cứu của ông về các bệnh dễ gây tử vong nhất cho trẻ em và tiêu chảy, suy dinh dưỡng là công trình có giá trị khoa học và thực tiễn lớn, đem lại cho ông Giải thưởng Nhà nước năm 2000. Ngoài ra, còn hàng chục cuốn sách do ông chủ biên hoặc làm chung với các cộng sự, đã, đang là những tài liệu giống như "kim chỉ nam" cho các bác sĩ nhi khoa.             


Hơn nửa thế kỷ làm người "chèo đò" trên giảng đường Trường đại học Y Hà Nội,  ở tuổi 86 bây giờ, GS. Chu Văn Tường không còn nhớ nổi số sinh viên mà ông đã trực tiếp giảng dạy, rồi những thạc sĩ, tiến sĩ, bác sĩ chuyên khoa về chuyên ngành nhi mà ông hướng dẫn, nhưng ông luôn tự hào là không ít học trò của ông đã thành giáo sư, tiến sĩ và đang giữ những vị trí chủ chốt của chuyên ngành nhi, tiếp bước thầy chăm lo sức khỏe cho những "mầm non" của đất nước. Thế nhưng, vị giáo sư già - cây đại thụ ngành nhi - Chu Văn Tường vẫn có nhiều trăn trở về thực trạng hiện nay : sinh viên theo học chuyên ngành nhi khoa cứ giảm dần, rồi nhiều bác sĩ trẻ không muốn theo ngành nhi vì ngại khó khăn, vất vả... đã khiến các BV chuyên ngành nhi khoa, nhất là BV tuyến dưới thiếu bác sĩ nhi trầm trọng...


Với những đóng góp của mình cho khoa học, cho chuyên ngành nhi khoa gần 60 năm qua, GS. Chu Văn Tường đã nhận được nhiều phần thưởng xứng đáng của Đảng và Nhà nước như Huân chương Kháng chiến chống Mỹ cứu nước, Huân chương Lao động hạng Nhì và danh hiệu cao quý: Nhà giáo nhân dân...


Nguồn: suckhoedoisong.vn (07/01/08)

Xem Thêm

Tôn vinh và tri ân một nghề cao quý nhất
Ngày Nhà giáo Việt Nam 20/11 hằng năm là dịp để toàn xã hội tôn vinh và tri ân những người thầy, người cô đã tận tụy cống hiến cho sự nghiệp trồng người. Đây không chỉ là ngày lễ ý nghĩa trong ngành giáo dục mà còn mang tính nhân văn sâu sắc, gắn kết tinh thần “tôn sư trọng đạo” - truyền thống văn hóa tốt đẹp của dân tộc Việt Nam.
GS.TSKH Nguyễn Đức Cương: Khoa học phải luôn mở rộng hợp tác và học hỏi
GS.TSKH Nguyễn Đức Cương, một trong những nhà khoa học hàng đầu về hàng không - vũ trụ của Việt Nam, đã có hơn nửa thế kỷ cống hiến cho ngành khoa học kỹ thuật hàng không vũ trụ. Không chỉ là người đặt nền móng cho các sản phẩm bay tiết kiệm chi phí cho Việt Nam, ông còn là người thầy tâm huyết, truyền cảm hứng và kiến thức cho nhiều thế hệ trẻ…
An Giang: Người thắp lửa sáng tạo cho học sinh tiểu học
Đam mê đặc biệt với khoa học và sáng tạo, thầy giáo Nguyễn Văn Trung đã không ngừng nỗ lực truyền cảm hứng cho học sinh tiểu học, đồng thời hướng dẫn các em đạt được những thành tích ấn tượng ở cả cấp tỉnh lẫn cấp quốc gia.
Phú Yên: Những nữ trí thức góp phần cải thiện đời sống người dân
Trong thời kỳ hội nhập, sự phát triển của khoa học và công nghệ đóng vai trò là nền tảng thúc đẩy các ngành kinh tế - xã hội khác phát triển. Đặc biệt, trong lĩnh vực khoa học và công nghệ (KH&CN) nữ trí thức không chỉ thể hiện khả năng sáng tạo, nghiên cứu mà còn góp phần tạo ra những ứng dụng thực tiễn giúp cải thiện đời sống người dân và phát triển kinh tế.
Tấm gương sáng trong nghiên cứu và bảo tồn di sản lịch sử
Ông sinh năm1948 tại Phường Hồng Hà, thị Yên Bái, là nhà khoa học tâm huyết, là tấm gương sáng về lòng kiên trì, sự đam mê nhiên cứu và cống hiến hết mình cho sử học của tỉnh Yên Bái. Những đóng góp của Nguyễn Văn Quang đối với ngành sử học đã để lại những dấu ấn sâu sắc và có ý nghĩa to lớn trong việc bảo tồn di sản lịch sử địa phương nơi có nhiều di tích lịch sử và văn hóa dân tộc vùng cao.

Tin mới

Góp ý Dự thảo Kế hoạch của Vutsa thực hiện Nghị quyết 107-NQ/CP
Mới đây, Vusta tổ chức Hội thảo Góp ý Dự thảo Kế hoạch của Liên hiệp Hội Việt Nam thực hiện Nghị quyết 107-NQ/CP ngày 09/7/2024 nhằm thực hiện Nghị quyết số 45-NQ/TW về công tác trí thức. Ông Phạm Ngọc Linh – Phó chủ tịch Vusta và ông Nguyễn Quyết Chiến – Tổng Thư ký Vusta chủ trì hội thảo.
Phú Yên: Giải thể 03 tổ chức Hội thành viên
UBND tỉnh Phú Yên vừa ban hành các Quyết định số 1471, 1472, 1473/ QĐ-UBND về việc giải thể 03 tổ chức Hội là thành viên của Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh Phú gồm: Hội Kế hoạch hoá gia đình, Hội Phụ sản và Hội Y tế thôn bản. Đây là các Hội không còn hoạt động liên tục mười hai tháng theo quy định.
Cụm thi đua số 3 tổng kết công tác năm 2024
Ngày 22/11, tại thị xã Sa Pa, Hội nghị tổng kết công tác thi đua, khen thưởng năm 2024, triển khai phương hướng nghiệm vụ năm 2025 của Cụm thi đua số 3 do Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh Lào Cai làm cụm trưởng đã được tổ chức.
Quảng Ngãi: Tuyên truyền chủ trương của Đảng cho trí thức
Chiều ngày 19/11, Liên hiệp Hội tỉnh đã phối hợp với Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy tổ chức hội nghị thông tin, tuyên truyền chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước cho đội ngũ trí thức tỉnh Quảng Ngãi với chủ đề: “Tình hình xung đột Israel-Hamas, Hezbollah; xung đột Nga-Ukraine. Tác động và xử lý của Việt Nam”.
Đánh giá hiện trạng và đề xuất giải pháp giảm thiểu tác động của đốt mở tại Việt Nam
Mặc dù 68% số người được khảo sát có ý thức về môi trường, 80% có ý thức về sức khỏe, nhưng vẫn thể hiện sẽ tiếp tục “đốt đồng” (đốt lộ thiên/đốt mở trong nông nghiệp), với lý do chủ yếu “vì tin có tác dụng tốt, nhanh, rẻ”. Do vậy, cần có giải pháp truyền thông phù hợp để thay đổi thói quen này.