Vị "ẩn sĩ" đi trước thời cuộc
Người ta không hiểu tôi…
Ngay ở lần trao giải đầu tiên (năm 2000), đã xôn xao tin đồn ông là “ứng viên số 1” trong số các công trình nông ngư nghiệp. Cuối cùng trật lấc. Một người bạn của ông - GS nông học Bùi Huy Đáp và một học trò của ông - Anh hùng Lao động, GS.TS. Trần Hồng Uy lại giật giải. Ông không ngỡ ngàng. Khi tôi gọi điện đến nhà, ông nói: Người ta không hiểu công trình của tớ… Thực ra trước đây, trong ngành một số vị có uy tín đã bắn tiếng: Ông ấy nghiên cứu những thứ to tát, xa xôi quá. Đi tranh giải Nobel có khi trúng. Ông chỉ cười. Công trình của ông quả là môt “núi” thông tin, và tôi đồ rằng trong lịch sử ngành nông nghiệp nước nhà chưa ai bỏ ra đúng nửa thế kỷ, từ 1955 đến nay, để theo đuổi một công trình mà bị đồng nghiệp cho là “xa xôi”. Ông là con trai của nhà văn hoá Đào Duy Anh. Những tưởng con theo nghiệp văn chương, ngồi tựa Truyện Kiều nên cha đã hướng cho ông kiến thức nho học. Đùng cái năm 15 tuổi (1946) ông bỏ nhà đi theo cách mạng, rồi 1953 đang trong quân ngũ thì có giấy gọi đi học nông nghiệp tại Đại học Tashkent(nước Cộng hoà Uzbekistan thuộc Liên Xô cũ). Ở đây, ông đã trở thành “hiện tượng kỳ lạ” khi vừa học đại học vừa làm luôn nghiên cứu sinh. Trước đó ở Liên Xô chưa có ai, đặc biệt ông lại là sinh viên một nước “thế giới thứ ba”. Năm 1958, ở tuổi 27 ông “ôm” cả bằng tốt nghiệp đại học xuất sắc lẫn bằng tiến sĩ là vị tiến sĩ đầu tiên của Việt Nam. Nghiên cứu nông nghiệp là con đường thầm lặng. “Công trạng” lẫy lừng vậy, nhưng về nước ông ngồi làm việc khiêm tốn ở Bộ môn Sinh lý thực vật (Học viện Nông lâm). Hình như từ thời trẻ, ông đã mang trong mình phong vị “ẩn sĩ”, không thích đua tranh. Ông cũng khác người, toàn đi làm những cái không ai chịu làm. Làm bắt đầu “ra tấm ra miếng”, người khác nhảy vào ông lại lặng lẽ rút lui. Rút ra nhưng không bỏ hẳn, ông vẫn tiếp tục hoàn thiện những gì mình đã khơi ra. Công trình “Cơ sở” khoa học của sự phát triển nông nghiệp và nông thôn lưu vực sông Hồng” nhận Giải thưởng Hồ Chí Minh năm 2005 được đánh giá là dài hơi nhất - vừa tròn nửa thế kỷ đã cóp nhặt cả đời nghiên cứu khoa học của ông. Trải qua bốn vòng bỏ phiếu: cấp viện, cấp bộ, cấp liên ngành và cấp quốc gia không ai bỏ phiếu chống. Kể cũng lạ, người ta phục ông hay “thương” ông, bởi chẳng gì ông cũng bỏ ra chẵn 50 năm thai nghén nó…
Tư tưởng của “đêm trước đổi mới”
Ông là tác giả của bộ giống lúa thấp cây, trong đó có giống NN75 - 10 cùng với học trò Tạ Minh Sơn, người sau này cũng được phong Anh hùng Lao động và nhận Giải thưởng Hồ Chí Minh. Có thể nói ở góc độ làm thầy ông có những học trò không hề “thường” chút nào. NN75 - 10 “đứng” được 10 năm, được nhân ra 50 vạn hecta và nhờ nó ông được Uỷ ban Khoa học và Kỹ thuật Nhà nước cấp bằng sáng chế số 001, tức là phát minh khoa học đầu tiên lúc đó được nhà nước thừa nhận. Cùng với các cộng sự, áp dụng phương pháp chọn tạo sinh lý, ông còn cho ra đời các giống lúa CN2, V14, V15, CR203. Khi tung CR203 ra, một số đồng nghiệp cho là ông bị mắc bệnh “hoang tưởng” vì trước đó các giống lúa của Việt Nam thường có thời gian sinh trưởng 150 ngày mà giờ ông rút xuống còn một nửa – 75 ngày. CN2 đã đặt nền mòng cho tư tưởng tăng vụ, cụ thể là vụ đông ở miền Bắc, dự báo xu hướng chọn tạo giống ngắn ngày tất yếu về sau này. Còn nhớ khi ông cùng GS. Bùi Huy Đáp, GS. Dương Hồng Hiên cổ suý cho vụ đông đã hứng chịu không ít búa rìu dư luận. Có người bổ thẳng vào mặt ông “Mùa đông lạnh thế cây trồng sống sao nổi”. Thế nhưng bằng nhạy cảm khoa học, với lối tư duy thường đi trước thời cuộc, ông đã chứng minh các cây ngô, khoai lang, lúa mì, đậu tương, rau màu… có thể sống được trong mùa đông giá rét. Cho đến nay, vụ đông đã trở thành vụ mang lại thu nhập chính cho nông dân miền Bắc, và “bản án xét lại” của ông đã bị xoá. Đi xa hơn, đẩy đến tận cùng vấn đề, căn cứ vào thời gian, nhiệt độ, ánh sáng… vụ đông và sinh lý cây trồng, ông còn chia cây vụ đông ra làm hai nhóm: cây ưa ấm gieo sớm và cây ưa lạnh gieo muộn. Đến giờ, đã sang thế kỷ 21, tư tưởng chỉ đạo vụ đông của Bộ NNPTNT vẫn dựa trên căn cứ khoa học ông đề xuất gần 40 năm trước. Từ giống mới, thâm canh tăng năng suất ông đề nghị chuyển đổi cơ cấu cây trồng, cơ cấu kinh tế nông nghiệp - vấn đề gần đây nhiều quan chức ngành nông nghiệp mới nhìn ra và đang phát động thành phong trào rộng lớn ở các địa phương. Điều này lại cho thấy lối tư duy đi trước thời đại của ông. Cũng bởi vậy, những gì ông đưa ra lúc đầu đều bị phản đối dữ dội. Người ta còn nhớ thập niên 70, ông kêu gọi xoá hợp tác xã, cổ suý cho kinh tế hộ tức là đi ngược lại Trung ương. Ông còn viết cuốn sách nổi tiếng “Kinh tế hộ nông dân” có tác động lớn đến Ban Nông nghiệp Trung ương đến nỗi Ban này phải gọi ông lên làm cố vấn. Ông khẳng định ở Pháp, nhờ kinh tế hộ nông dân mà một người làm nông nuôi được 20 người, còn dư nông sản để xuất khẩu. Vì vậy, nông dân Pháp chỉ chiếm 2 đến 5% dân số nhưng nông nghiệp Pháp đứng đầu châu Âu và thế giới.
Những ai làm ngành nông nghiệp đều nhớ đến khoán 10 - cuộc trở dạ của “đêm trước đổi mới”. Hoá ra, không ai xa lạ, chính ông - người ngồi ngay trước mặt tôi là một trong số những người góp công, góp sức để ra đời khoản 10. Ông nhớ lại: Những năm 1978 - 1990, ta với Trung Quốc căng thẳng. Hồi đó, hầu như không có người Việt Nam nào được cử sang học tập, đào tạo ở nước bạn. Vì vậy, ta không có thông tin gì về kinh tế Trung Quốc. Thực tế, Trung Quốc đã tiến hành cải cách từ năm 1976. Tôi có may mắn là cộng tác viên của Viện Nghiên cứu Lúa quốc tế (IRRI) nên được sang Trung Quốc hai lần tập huấn. Chứng kiến nông nghiệp, nông thôn Trung Quốc tôi thấy khác quá. Về nước, tôi viết báo cáo “Cải cách kinh tế của Trung Quốc” trình lên Ban Nông nghiệp Trung ương. Báo cáo đưa ra Ban Bí thư bàn “nát nước nát cái”, ngay trong Bộ Chính trị cũng chưa nhất trí. Cuối cùng, ông Võ Chí Công, lúc đó là Thường trực Ban Bí thư, vẫn đặt bút ký Nghị quyết 10 (khoán 10). Tôi phục ông ấy là người dám làm, dám chịu. Vì suy cho cùng, bản chất khoán 10 là thừa nhận kinh tế hộ, rũ bỏ hợp tác xã… Tôi biết tin khoán 10 khi đang đi chỉ đạo sản xuất nông nghiệp ở Vĩnh Phú và Hải Phòng. Nông dân hai tỉnh này phản đối hợp tác xã nhiều nhất, họ xé rào ra làm chui kinh tế hộ. Ông Lê Huy Ngọ hồi đó là Bí thư Vĩnh Phú biết chuyện đó. Thậm chí nhà văn Đào Vũ viết cuốn Bí thư Huyện uỷ lấy thực tế là nông nghiệp Hải Phòng còn đưa tôi vào trong truyện…
Vị “ẩn sĩ đường”
Khi gặp ông, tôi cứ phảng phất hình ảnh người thầy trong bút ký của GS Hà Minh Đức viết về thầy học của mình - GS văn học cổ Bùi Văn Nguyên. Ông không họ hàng, tơ vương gì với ông Nguyên, nhưng tôi thấy hai người giống nhau đến lạ, ở tuổi 75, ông vốn có vốn gia tài đồ sộ với 300 tài liệu, công trình nghiên cứu khoa học. Ông là Viện sĩ của Liên Xô cũ, là Hiệp sĩ công trạng của Pháp, sĩ quan Cành cọ hàn lâm Pháp, đoạt giải thưởng quốc tế Rene Dumont… 50 năm “cày cuốc” trên mảnh đất phù sa châu thổ sông Hồng, ông đã cống hiến những đề tài khoa học giá trị đầy ắp tính dự báo cho vùng đất này với mong ước nông nghiệp đồng bằng sông Hồng sẽ cất cánh. Một đồng nghiệp của ông gọi vui ông là người “cày đường nhựa”, say mê, chịu lăn lộn đồng ruộng mà gặt hái được nhiều thành công. Ở khúc chót cuộc đời, ông vẫn làm việc với một luận điểm rất khoa học rằng “Chỉ tiêu của sự sống là trí nhớ, còn nhớ và làm việc được thì chưa già”. Ông chưa thôi day dứt với cuộc sống của người nông dân, với các mô hình làng nghề, phố nghề nhằm tạo ra nhiều việc làm tại chỗ cho nông dân, phát triển nông thôn bền vững. Ông nói “Trong văn hoá, Đảng và Nhà nước kêu gọi kết hợp giữa giá trị truyền thống và hiện đại, nhưng trong kinh tế ta cóp nhặt của Trung Quốc một tí, Liên Xô cũ một tí, Hàn Quốc một tí… chẳng có gì là truyền thống. Vậy truyền thống trong kinh tế của Việt Nam là gì? Theo tôi, đó là làng nghề, phố nghề. Muốn công nghiệp hoá nông thôn phải xuất phát từ đây”. Tôi chia tay ông, và nhìn vị “ẩn sĩ” khuất sau cánh công ngôi nhà ở số 186/1 Trần Duy Hưng, Hà Nội. Ông lại vào phòng làm việc, ngập trong những chồng sách cao lút đầu, rồi giở đọc, ghi chép… Vị ẩn sĩ đó là GS.TS. Viện sĩ Đào Thế Tuấn.
Nguồn: Khoa học và Đời sống, số xuân Bính Tuất 2006, tr 15