Về một số khái niệm trong các bản Điều lệ của Liên hiệp các hội khoa học và kỹ thuật Việt Nam
Liên hiệp hội Việt Nam
Trên cơ sở kết quả hoạt động của Uỷ ban Liên lạc lâm thời các hội khoa học và kỹ thuật Việt Nam, ngày 26/3/1983, Liên hiệp các hội khoa học và kỹ thuật Việt Namđã được thành lập với các hội thành viên là 14 hội khoa học và kỹ thuật ngành hoạt động trên phạm vi cả nước và Hội Liên hiệp khoa học và kỹ thuật Hà Nội.
Tên gọi “Liên hiệp các hội khoa học và kỹ thuật Việt Nam” là sự kế thừa tên gọi “Uỷ ban Liên lạc lâm thời các hội khoa học và kỹ thuật Việt Nam ”. Nó cũng đã được công nhận tại Quyết định 121/HĐBT ngày 29/ 7/ 1983 của Hội đồng Bộ trưởng (nay là Chính phủ) “cho phép Liên hiệp các hội khoa học và kỹ thuật Việt Nam chính thức thành lập và hoạt động”.
Sau khi, ở nước ta, khái niệm “kỹ thuật” được thay thế bằng khái niệm “công nghệ” thì trong quá trình chuẩn bị cho Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III Liên hiệp các hội khoa học và kỹ thuật Việt Nam đã có một số ý kiến đề nghị sự thay đổi đó trong tên gọi của Liên hiệp các hội khoa học và kỹ thuật Việt Nam. Cuối cùng các ý kiến đó đã không được chấp nhận mà một trong những lý do là tên gọi “Liên hiệp các hội khoa học và kỹ thuật Việt Nam ” đã trở thành truyền thống. Vả lại, trong khoa học cũng đã từng xảy ra những trường hợp tương tự như vậy, chẳng hạn như khái niệm “nguyên tử”.
Sau gần ba thập kỷ, đã trải qua thử thách và trở nên quen thuộc, đến nay tên gọi “ Liên hiệp các hội khoa học và kỹ thuật Việt Nam” nên được tiếp tục sử dụng để chỉ tổ chức chính trị - xã hội của trí thức khoa học và công nghệ nước nhà.
Kể từ Điều lệ nhiệm kỳ II (1988 - 1993), Liên hiệp các hội khoa học và kỹ thuật Việt nam, với tư cách là một tổ chức hoạt động trong cả nước, được gọi tắt là Liên hiệp hội. Về sau, nhiều liên hiệp các hội khoa học và kỹ thuật tỉnh, thành phố cũng được gọi tắt là liên hiệp hội, kèm theo đó là tên của địa phương, ví dụ như Liên hiệp hội Hà Nội, Liên hiệp hội Thái Bình… Để xử lý tình huống đó, trong Điều lệ nhiệm kỳ V (2004 - 2009) xuất hiện tên viết tắt là “ Liên hiệp hội Việt Nam ”. Tên viết tắt mới này vừa thể hiện phạm vi hoạt động trong cả nước của Liên hiệp hội Việt Nam, vừa tương thích với tên viết tắt của các liên hiệp các hội khoa học và kỹ thuật tỉnh, thành phố, lại thể hiện được tính hệ thống và thống nhất của Liên hiệp hội Việt Nam từ cấp trung ương đến cấp địa phương, từ phạm vi toàn quốc đến phạm vi tỉnh, thành phố.
Ngay từ đầu, Liên hiệp hội Việt Nam đã có thành viên là các hội khoa học và kỹ thuật ngành hoạt động trên phạm vi cả nước. Trước đây, các hội đó được gọi là các hội khoa học và kỹ thuật ngành trung ương, gọi tắt là các hội ngành trung ương.Đến nay, khái niệm dùng cho các hội này đươc Hội nghị đại biểu các hội ngành ngày 20/10/2009 tại Hà Nội thống nhất gọi là “Hội khoa học và kỹ thuật ngành toàn quốc”. Gọi tắt là “ hội ngành toàn quốc”.
Tiếp theo Hà Nội, trong những năm từ 1985 đến 1991, tại nhiều tỉnh, thành phố đã xuất hiện tổ chức liên hiệp của các nhà khoa học và công nghệ. Cho đến hết nhiệm kỳ II, trong Điều lệ của Liên hiệp hội, các tổ chức này được gọi là các “hội liên hiệp khoa học và kỹ thuật tỉnh, thành phố và đặc khu”. Tại Điều lệ nhiệm kỳ III (1993 - 1999), tên gọi này được đổi thành “Liên hiệp các hội khoa học và kỹ thuật tỉnh, thành phố”. Đến Điều lệ nhiệm kỳ V xuất hiện tên gọi tắt là liên hiệp hội địa phương.Tên gọi tắt liên hiệp hội địa phươngnên được tiếp tục duy trì.
Như vậy, Liên hiệp các hội khoa học và kỹ thuật Việt Nam là tên gọi chính thức của toàn bộ hệ thống bao gồm các hội thành viên là các hội khoa học và kỹ thuật ngành toàn quốc và các liên hiệp các hội khoa học và kỹ thuật tỉnh, thành phố. Tức là khi nói đến Liên hiệp hội Việt Nam thì cũng hàm ý cả các hội ngành toàn quốc và các liên hiệp hội địa phương.
Tuy nhiên, trong một số trường hợp thực tế cụ thể, nhiều hội thành viên, nhất là các tổng hội và các hội ngành toàn quốc, thường chủ động tiến hành những hoạt động tương đối độc lập, đôi khi với cùng nội dung, nhằm cùng mục đích và đạt cùng kết quả như Liên hiệp hội Việt Nam. Chẳng hạn trong quá trình phản biện và tư vấn thẩm định dự án đầu tư xây dựng công trình thuỷ điện Sơn La, Tổng hội Địa chất Việt Nam đã tham gia khảo sát và khẳng định các điều kiện địa chất tại tuyến Pa Vinh hoặc Hội Thuỷ lợi Việt Nam đề xuất một số ý kiến về quy mô công trình. Trong những trường hợp như vậy thường hay xuất hiện cụm từ “ Liên hiệp hội Việt Nam và các hội thành viên”. Để tránh mọi sự hiểu lầm đáng tiếc, trong cụm từ này nên thay hai từ “và các” bằng nhóm từ “cùng một số”. Khi đó sẽ có cụm từ “Liên hiệp hội Việt Nam cùng một số hội thành viên”.
Cơ quan lãnh đạo
Tại các bản Điều lệ từ nhiệm kỳ I đến nhiệm kỳ V Liên hiệp hội Việt Nam đều có các điều hoặc chương dành cho các cơ quan lãnh đạo như Đại hội đại biểu toàn quốc, Hội đồng Trung ương, Đoàn Chủ tịch, Uỷ ban Kiểm tra.
Đại hội đại biểu toàn quốc
“Cơ quan lãnh đạo cao nhất của Liên hiệp hội là Đại hội toàn thể đại biểu của các hội thành viên, thường lệ 5 năm họp một lần” (Điều 13 Điều lệ nhiệm kỳ II).
“Cơ quan lãnh đạo cao nhất của Liên hiệp hội là Đại hội đại biểu toàn quốccủa Liên hiệp hội, thường lệ 5 năm họp một lần”. (Điều 12 Điều lệ nhiệm kỳ III và Điều lệ nhiệm kỳ V).
“Cơ quan lãnh đạo cao nhất của Liên hiệp hội là Đại hội đại biểu toàn quốccủa Liên hiệp hội Việt Nam . Đại hội họp thường lệ 5 năm họp một lần”. (Điều 12 Điều lệ nhiệm kỳ V).
Hội đồng trung ương
Kể từ nhiệm kỳ II trong Điều lệ Liên hiệp hội xuất hiện khái niệm “ Hội đồng Trung ương” thay cho khái niệm “Ban Chấp hành Trung ương” đã được sử dụng trước đó.
“Hội đồng Trung ương có nhiệm vụ thực hiện Nghị quyết của Đại hội toàn thể đại biểu của các hội thành viên, chỉ đạo toàn bộ hoạt động của Liên hiệp hội giữa hai kỳ Đại hội” (Điều 16. Điều lệ nhiệm kỳ II).
“Hội đồng Trung ương có nhiệm vụ tổ chức thực hiện Nghị quyết của Đại hội đại biểu của Liên hiệp hội, chỉ đạo toàn bộ hoạt động của Liên hiệp hội giữa hai kỳ Đại hội” (Điều 15. Điều lệ nhiệm kỳ III).
“Hội đồng Trung ương có nhiệm vụ tổ chức thực hiện Nghị quyết của Đại hội đại biểu toàn quốc của Liên hiệp hội, chỉ đạo toàn bộ hoạt động của Liên hiệp hội giữa hai kỳ Đại hội” (Điều 15. Điều lệ nhiệm kỳ IV).
“Hội đồng Trung ương Liên hiệp hội Việt Nam có nhiệm vụ tổ chức, thực hiện Nghị quyết của Đại hội đại biểu của Liên hiệp hội Việt Nam, chỉ đạo toàn bộ hoạt động của Liên hiệp hội Việt Nam giữa hai kỳ Đại hội” (Điều 15. Điều lệ nhiệm kỳ V).
Với những nhiệm vụ được quy định như trên trong Điều lệ Liên hiệp hội Việt Nam qua các nhiệm kỳ, về thực chất, Hội đồng Trung ương là cơ quan lãnh đạo của Liên hiệp hội Việt Nam giữa hai kỳ Đại hội.
Đoàn Chủ tịch
Khái niệm “Đoàn Chủ tịch” xuất hiện từ Điều lệ nhiệm kỳ II.
“Đoàn Chủ tịch là cơ quan chỉ đạo của Liên hiệp hội giữa hai kỳ họp của Hội đồng Trung ương” (Điều 17. Điều lệ nhiệm kỳ II và nhiệm kỳ III).
“Đoàn Chủ tịch là cơ quan thường trựccủa Hội đồng Trung ương Liên hiệp hội giữa hai kỳ họp của Hội đồng Trung ương” (Điêu 16. Điều lệ nhiệm kỳ IV).
“Đoàn Chủ tịch thay mặt Hội đồng Trung ương Liên hiệp hội Việt nam chỉ đạo và kiểm tra toàn bộ hoạt động của Liên hiệp hội Việt Nam giữa hai kỳ họp của Hội đồng Trung ương Liên hiệp hội Việt Nam” (Điều 17. Điều lệ nhiệm kỳ V).
Những quy định trên đây có thể cho phép hiểu Đoàn Chủ tịch là cơ quan lãnh đạo của Liên hiệp hội Việt Nam giữa hai kỳ họp của Hội đồng Trung ương.
Tại Điều 17. Điều lệ nhiệm kỳ V có một quy định mới là “ Đoàn Chủ tịch phân công một số uỷ viên làm nhiệm vụ thường trực”. Đây không phải là một cơ quan hoặc một cấp lãnh đạo, không có thẩm quyền ban hành chỉ thị hoặc nghị quyết, mà chịu trách nhiệm tổ chức thực hiện các nghị quyết của Đoàn Chủ tịch và báo cáo trước Đoàn Chủ tịch về kết quả thực hiện các nghị quyết đó.
Uỷ ban Kiểm tra
Một trong những bộ phận hợp thành công tác lãnh đạo là hoạt động kiểm tra. Kể từ nhiệm kỳ II, trong Điều lệ của Liên hiệp hội Việt Nam có các điều quy định về hoạt động kiểm tra, về cơ cấu thành phần, quyền hạn và nhiệm vụ, nội dung và lề lối làm việc của Uỷ ban Kiểm tra.Điều lệ các nhiệm kỳ tiếp theo đều quy định: “ Hội đồng Trung ương bầu ra Uỷ ban Kiểm tra Liên hiệp hội Việt nam”. Tiếp theo Điều lệ nhiệm kỳ IV, tại Điều lệ nhiệm kỳ V cũng có quy định: “ Chủ nhiệm Uỷ ban Kiểm tra là Uỷ viên Đoàn Chủ tịch Hội đồng Trung ương Liên hiệp hội Việt Nam ” .
Cơ quan Liên hiệp hội Việt Nam
Theo các quy định từ trước đến nay trong Điều lệ Liên hiệp hội Việt Nam thì Đại hội đại biểu toàn quốc họp thường lệ năm năm một lần, Hội đồng Trung ương mỗi năm một lần, Đoàn Chủ tịch và Uỷ ban Kiểm tra ba tháng một lần. Trong khi đó, Liên hiệp hội Việt Nam còn có Văn phòng và các ban chức năng với những cán bộ và nhân viên làm việc chính nhiệm, thường xuyên tại cơ quan. Điều 19. Điều lệ nhiệm kỳ II xác định: “ Cơ quan của Liên hiệp hội” bao gồm các ban và các tổ chức trực thuộc Hội đồng Trung ương Liên hiệp hội”. Điều 17 Điều lệ nhiệm kỳ III và nhiệm kỳ IV cũng đề cập đến “ Cơ quan Liên hiệp hội. Điều đó tương tự như ở các bộ với các khái niệm “cơ quan Bộ Giáo dục và Đào tạo”, “cơ quan Bộ Khoa học và Công nghệ” cũng bao gồm Văn phòng bộ, các cục, vụ chức năng.
Mới đây, Điều 18 Điều lệ nhiệm kỳ V sử dụng khái niệm “ cơ quan trung ương Liên hiệp hội Việt Nam ”. Thực ra, khi đã sử dụng khái niệm “ Liên hiệp hội Việt Nam ” thì có thể không nhất thiết phải dùng thêm hai chữ “trung ương”. Vả lại, việc sử dụng khái niệm “ cơ quan trung ương” có thể được hiểu là nó bao hàm cả các cơ quan lãnh đạo đã trình bày ở trên và do đó dễ gây ra sự hiểu lầm không đáng có. Để tránh sự hiểu lầm đó, trong Điều lệ nhiệm kỳ VI có thể cân nhắc sử dụng lại khái niệm “ Cơ quan Liên hiệp hội Việt Nam ” đã quen thuộc trong nhiều nhiệm kỳ. Trong trường hợp nhất thiết phải có một tính từ để bổ nghĩa cho từ “ cơ quan” thì có thể xem xét từ “ thường trực”. Khi đó sẽ xuất hiện khái niệm “ cơ quan thường trực Liên hiệp hội Việt Nam” dùng để chỉ một tập hợp bao gồm Văn phòng và các ban chức năng của Liên hiệp hội Việt Nam .
Với những điều trình bày trên đây có thể hiểu cơ quan trung ương Liên hiệp hội Việt Nambao gồm các cơ quan lãnh đạo và cơ quan thường trực Liên hiệp hội Việt Nam .








