Về lòng yêu nước của những nhà “trí thức dấn thân” thời hiện đại
Nói đến các nhà Trí thức dấn thân, ai cũng hiểu rằng: Đỏ lả những trí thức đã dũng cảm gác sang một bên những quyền lợi, hạnh phúc riêng tư, dấn thân vào gian khổ, hy sinh, có khi phải dằn vặt, chịu đựng suốt đời, để cuối cùng giành được niềm tự hào là đã vì nghĩa lởn của dân tộc tham gia vào sự nghiệp dựng nước, giữ nước thành công.
Thiết nghĩ, trách nhiệm của sử học hiện đại lả phải từng bước làm rõ, biểu dương những tấm lòng yêu nước này; như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói: Dân ta có một lòng nồng nàn yêu nước. Đó là một truyền thống quý báu của ta. Từ xưa đến nay, mỗi khi Tổ quốc bị xâm lăng, thì tinh thần ấy lại sôi nổi. Nó kết thành một làn sóng vô cùng mạnh mẽ, to lớn; nó lướt qua mọi sự nguy hiểm, khó khăn, nó nhấn chìm tất cả lũ bán nước và lũ cướp nước... Tinh thần yêu nước cũng như các thứ của quý. Có khi được trưng bày trong tủ kính, trong bình pha lê, rõ ràng dễ thấy. Nhưng cũng có khi cất giấu kín đáo trong rương, trong hòm. Bốn phận của chúng ta là làm cho những của quý kín đáo ấy đều được đưa ra trưng bày. Nghĩa là phải ra sức giải thích tuyên truyền, tổ chức, lãnh đạo, làm cho tinh thần yêu nước của tất cả mọi người đều được thực hành vào công việc yêu nước”(2).
Tôi xin tiếp tục viết về lòng yêu nước của hai nhả trí thức mà tôi được gần gũi: Nhà địa lý học Lê Xuân Phương, gốc xứ Thanh và nhạc sĩ Phạm Tuyên, gốc xứ Đông (Hải Dương).
1. Nhà địa lý học Lê Xuân Phương
Ông sinh năm 1904, đã từng làm giám học trường Quốc Học Huế (thời gian ông Phạm Đình ái làm hiệu trưởng). Sau Cách mạng tháng Tám, ông là giáo sư trường đại học Sư phạm I Hà Nội. Từ tháng 1 năm 1955, chuyển về phụ trách tổ Địa lý, Ban Văn Sử Địa trung ương. Năm 1959, chuyển về công tác tại Cục Lưu trữ trung ương thuộc Phủ Thủ tướng. Khi nghỉ hưu ông được hưởng lương cấp chuyên viên 3. Ngày 15 tháng 8 năm 1989, ông qua đời. Tang lễ do Cục Lưu trữ trung ương tổ chức. Ngày đó tôi đã viết: "Chúng ta tiễn đưa nhà địa lý học Lê Xuân Phương về nơi an nghỉ cuối cùng, khi mà dòng điện Sông Đà - cùng dòng điện Tri An đã hòa vào dòng điện quốc gia, cung cấp điện năng cho công, nông nghiệp từ Bắc chí Nam ...".
Trong dòng người tiễn đưa ấy gồm thân nhân, những đồng nghiệp và những học trò của nhà địa lý Lê Xuân Phương, đã có những tiếng tiếc thương ca ngợi: “Anh mất đi, những dự kiến, ước mơ của anh đã thành sự thật...".
Cuốn Sơ thảo địa lý Việt Nam do ông làm chủ biên và Ban Văn Sử Địa Việt Nam cho xuất bản tháng 6 năm 1957, đã từng gợi ra những ước mơ: "Nước ta có nhiều núi và nhiều mưa. Lưu lượng các sông mạnh... Có nhiều thác lớn có thể sử dụng vào việc sản xuất điện lực... Điện lực mà một nhà thuỷ điện xây trên sông Đà vào khoảng chợ Bờ sản xuất ra có thể bằng gấp đôi điện lực của tất cả bao nhiêu nhà máy điện thực dân ở Bắc Bộ trước kia cộng lại... Nếu ta đào một cái kênh độ 20km nối sông Đa Nhim và sông Cơ-rông-pha ở Lang-bi-ang lại với nhau, ta sẽ tạo ra một cái thác cao 300 mét có thể sản xuất một điện lực để cung cấp cho Liên khu 5, Tây Nguyên và một phần Nam Bộ"(3).
Trong 6 chương (213 trang), những chương được Ban Văn Sử Địa quan tâm đầu tư và cũng là những chương cỏ đóng góp cho công cuộc xây dựng ban đầu của đất nước nhiều nhất là chương II về khí hậu, chương V về thực vật, động vật và chương VI về tài nguyên thiên nhiên. Giở những trang này chúng ta đã có những tri thức cần thiết: Bão là gì? Nguồn gốc của bão, hướng đi và tốc độ của bão? Nước dâng sau bão? Đặc biệt là việc ghi lại sức mạnh của một vài cơn bão trong lịch sử đã có tác dụng như sự báo động và nêu cao cảnh giác: "Năm 1904 ở Huế, một trận bão đã thổi bay hai nhịp cầu Tràng Tiền bằng sắt xuống sông Hương và làm 714 người thiệt mạng ở Thừa Thiên. Trong trận bão ngày 21 tháng 9 năm 1911 ở Nghệ An có người bị thổi bay lên cao rồi rơi xuống cách xa 8 mét...”(4).
Những công trình nghiên cứu của ông đã được công bố như: "Đối tượng của địa lý kinh tế" (Tạp chí Văn Sử Địa, số 2 - 1958); “Vấn đề địa đồ và phiên âm địa danh" (Tạp chí Văn Sử Địa, số 1 - 1957); “Ảnh hưởng giữa thiên nhiên và sinh hoạt xã hội" (Tạp chí Văn Sử Địa, số 1- 1955)... đều đã tiếp cận được những vấn đề cơ bản của khoa học địa lý. Đồng thời, ông cũng không quên ứng dụng những thành tựu ban đầu vào phục vụ trực tiếp cho sản xuất và xây dựng đất nước, với các công trình: "Vấn đề phân chia khu vực địa lý của nước ta” (Tạp chí Văn Sử Địa tháng 2 - 1957); "Mưa ở nước ta ảnh hưởng đến việc trồng trọt như thế nào?" (Tạp chí Văn Sử Địa tháng 7 - 1957)...
Trong những ngày chống Mỹ cứu nước gian khổ, khi làm công tác ở Cục Lưu trữ trung ương và cả thời gian nghỉ hưu, ông vẫn say sưa biên soạn vả nâng cao công trình địa lý Việt Nam của mình, từ 6 chương lên 13 chương và đã hoàn thành đưa nhà xuất bản Khoa học Kỹ thuật. Nhưng thực là "lực bất tòng tâm", viết ra mà chưa in ra được.
Điều đáng ghi nhớ ở ông là lòng nhiệt thành, muốn đem những tri thức tích luỹ được ra để cống hiến cho dân tộc, cho khoa học, chứ đâu có cầu danh, cầu lợi! Bởi vì, như chúng ta đã biết đồng chí Lê Xuân Phương của chúng ta, một người thuộc lớp trí thức được đào tạo dưới chế độ thực dân, nếu muốn được sung sướng thì đã có thể sống trong nhung lụa mà đế quốc phong kiến sẵn sàng dành cho. Nhưng nhà giáo ấy đã giữ gìn được phẩm chất yêu nước trong sáng của mình. Ông đã từng dạy dỗ đưa những học trò mà sau này trở thành những nhà cách mạng có tên tuổi. Đặc biệt là có học trò đi làm cách mạng, khi vượt ngục tù đế quốc và gặp phải nguy nan đã tìm đến nương tựa ở nhà thầy được thầy hết lòng bảo vệ, giúp đỡ để có điều kiện tiếp tục hoạt động cách mạng.
Rồi khi đất nước giành được độc lập lại bị đế quốc tái xâm lăng, kháng chiến chống Pháp bắt đầu, nhà sư phạm yêu nước Lê Xuân Phương đã quyết tâm từ bỏ biệt thự xinh đẹp của mình ở Huế, tạm biệt một bộ phận nhỏ của gia đình vì điều kiện không đi kháng chiến được, đã lưu lại ở trong thành - dứt bỏ sang giàu đi theo con đường mà Bác Hồ đã chọn là "từ chủ nghĩa yêu nước đến chủ nghĩa xã hội". Ông đi vào kháng chiến và trong hàng ngũ đảng viên của Đảng cộng sản Việt Nam . Chính với tinh thần, động cơ đó mà nhà sự phạm Lê Xuân Phương đã trở hành nhà địa lý học cách mạng - một trong những cán bộ chủ chốt của Ban Văn Sử Địa Việt Nam, thành lập từ tháng 12 năm 1953.
Ông cũng như nhà thư tịch học Trần Văn Giáp có hoàn cảnh tương tự, đã từng tâm sự với tôi "muốn được cái lớn là độc lập, tự do của dân tộc, thì phải hy sinh cái nhỏ là giàu sang, phú quý, hạnh phúc riêng tư”. Sự dấn thân của các trí thức lão thành là như thế. Ngày 23 tháng 5 năm 2008, nhà địa lý học Lê Xuân Phương đã được Nhà nước truy tặng Huân chương Độc lập hạng Ba, với danh nghĩa một nhà lão thành cách mạng.
2. Nhạc sĩ Phạm Tuyên
Từ lâu tôi muốn viết về đại gia đình học giả Phạm Quỳnh - nhà văn hóa quê tôi. Nhưng cũng mãi tới những năm cuối thế kỷ XX, đầu thế kỷ XXI, đặc biệt là tới đại hội Người cao tuổi trung ương, tôi mới có dịp gặp Giáo sư Phạm Khuê, khi ông mời tôi tham gia đoàn chủ tịch đại hội cùng với ông và Giáo sư Vũ Khiêu, nữ Giáo sư Lê Thi. Ngồi bên ông tôi đã tâm sự với ông đôi điều vê quê hương, gia đình. Ít năm sau, cũng là vì sự nghiệp sử học nhằm theo đuổi "Công minh lịch sử và công bằng xã hội” mà tôi đã viết về: "Phạm Quỳnh - chủ bút báo Nam Phong, ngự tiền văn phòng của Bảo Đại'. Bài này được đăng trên tạp chí Khoa học và Ứng dụng, Hải Dương, số 2 - 2005. Tôi sao chụp trực tiếp gửi tới nhà nhạc sĩ Phạm Tuyên ngày 16 tháng 5 năm 2005 và nhận được thư trả lời của Phạm Tuyên ngày 10 tháng 4 năm 2006, với mấy dòng mở đầu chân thành: "Xin cám ơn bài báo của anh về chủ bút báo Nam Phong, đã khơi dậy sự quan tâm của dư luận, công chúng rất khát khao sự công minh lịch sử...". Tôi thông tin với anh là ngày 20 tháng 6 năm 2006, tạp chí Tia Sáng và ngày 10 tháng 7 năm 2006, tạp chí Khoa học và Tố quốc đã đăng bài đó của tôi... Khi tôi đến 53 Nguyễn Du để nhận báo biếu, thì gặp một cộng tác viên của báo vui cười nói với tôi: cám ơn anh đã cho nổ một phát pháo đầu tiên khai thông cho việc làm sáng tỏ sự kiện lịch sử này...".
Từ đó tới nay, chúng tôi trao đồi nhiều thông tin, tư liệu mới. Càng đọc, tôi càng thấy quý mến lòng yêu nước của đại gia đình này. Dù là ở cương vị nào, ở trong hay ngoài nước, các con, cháu chắt, nội hay ngoại của học giả Phạm Quỳnh đều hướng về Tổ quốc và cống hiến trong phạm vi có thể. Tiêu biểu là nhạc sĩ Phạm Tuyên.
Phạm Tuyên khi mới 15 tuổi, đã mất cha trong một trường hợp còn bí ẩn. Tin từ gia đình chỉ được biết là hai bà chị ruột của anh, đã được Cụ Hồ cho gặp. Bác Hồ nói: "Rất tiếc là việc đã lỡ mất rồi”. Bác khuyên nhủ: "Cụ Phạm là người của lịch sử, hãy để lịch sử sau này đánh giá lại, các con cháu cứ yên tâm đi theo cách mạng”(5).
Với Phạm Tuyên và gia đình thì đây là lời dặn dò ghi lòng, tạc dạ. Ở Phạm Tuyên: "Hận lòng lắng xuống, để nhiệt tình yêu nước dâng cao". Anh quyết tâm đi vào kháng chiến với cuộc đời binh nghiệp gắn với âm nhạc.
Đầu năm 1950, tốt nghiệp trường sĩ quan lục quân Trần Quốc Tuấn, khóa 5, một khóa học đầy khó khăn, thử thách. Phạm Tuyên được điều về làm đại đội trưởng Đại đội 3 trường Thiếu sinh quân Việt Nam . Tại đây, tiếp theo ca khúc Vào lục quân sáng tác từ trường lục quân, Phạm Tuyên cho ra đời một chùm ca khúc mới: Em vào thiếu sinh quân, Lớp học ở rừng... Sự nghiệp âm nhạc gắn với cuộc đời binh nghiệp bắt đầu từ đây với những nét đặc sắc của nó. Ngay cả khi có người kích động gọi anh là “tặc tử”, "bất hiếu tử” thì ở anh nhiệt tình yêu nước vẫn dâng cao.
Nhiều báo chí đã ca ngợi anh: Báo Tiền Phong viết: "Nhạc sĩ Phạm Tuyên đã sáng tác hơn 600 ca khúc, (trong đó hơn 113 là sáng tác cho thiếu nhi - VT). Có những ca khúc đánh dấu một thời điểm lịch sử, một thời khắc thiêng liêng, một sự kiện trọng đại, một chiến dịch lớn lao, như những bài Chiếc gậy Trường Sơn, Miền nam anh dũng, Bất khuất (hợp xướng), Con kênh ta đào, Từ làng sen, Như có Bác trong ngày đại thắng... Riêng ca khúc Chiến đấu vì độc lập, tự do được sáng tác trong đêm đầu tiên của ngày xảy ra cuộc chiến tranh biên giới phía Bắc, năm 1979. Đây là ca khúc mở đầu cho một dòng nhạc xuất xứ từ cuộc chiến đấu bảo vệ biên cương phía Bắc của Tổ quốc, với những bài rất hay như Gửi em ở cuối sông Hồng, Tình yêu trên dòng sông quan họ... Vì thế có người nói ca khúc Phạm Tuyên là một Biên niên sử bằng âm nhạc.(6)
Tuần báo Hải Dương, Xuân Kỷ Sửu (2009) viết: “Chính những năm tháng chống Mỹ đầy gian khổ, hy sinh, nhạc sĩ Phạm Tuyên đã sáng tác ra những ca khúc cách mạng trữ tình, những bài hát ca ngợi Đảng và Bác Hồ kính yêu: Đảng đã cho tôi sáng mắt, sáng lòng, Đảng đã cho ta cả một mùa xuân; Từ làng sen; Chiếc gậy Trường Sơn; Thành phố mười mùa hoa. Riêng bài hát Như có Bác trong ngày đại thắng (đã dẫn - VT), nhạc sĩ Phạm Tuyên đã sáng tác đúng vào đêm 28 tháng 4 năm 1975, sau khi nghe phi công Nguyễn Thành Trung ném bom vào dinh Độc Lập. Bài hát đã đưa anh lên đinh vinh quang của dòng âm nhạc ngợi ca cách mạng. Với anh, tình yêu đất nước nồng nàn, sự biết ơn vô hạn đối với Bác Hồ kính yêu chính là nguồn cảm hứng lớn lao để anh sáng tác ra những ca khúc đi vào lịch sử cách mạng của dân tộc, sống cùng năm tháng(7). Chính vì vậy mà trong giới nghệ thuật, có người coi Phạm Tuyên là một trong những nhạc sĩ viết về Đảng hay nhất.
Một câu hỏi đặt ra là "Làm thế nào tác giả lại viết được hay như vậy?" Phạm Tuyên trả lời: "Tôi viết những bài này vào những năm 60 thế kỷ XX, khi đất nước có nguyện vọng thống nhất dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhằm xua đi màn đêm tối tăm, đau khổ... Những đảng viên xung quanh tôi xung phong đi vào những nơi gian khổ nhất, ác liệt nhất. Vì vậy, lúc nào tôi cũng nghĩ làm sao đóng góp được nhiều nhất cho sự nghiệp chung. Muốn vậy phải có chỗ đứng trong quần chúng. Thực tế, tình cảm của mọi người đối với âm nhạc của tôi đã động viên tôi nhiều lắm, nó giúp tôi gác sang một bên những đau đớn mất mát...”(8)
Nhiều văn nghệ sĩ đã thông cảm với những đau đớn, mất mát của anh. Nhả thơ Trần Đăng Khoa, trong lời bạt cho tập nhạc Cánh én tuổi thơ của Phạm Tuyên đã viết: "Cuộc đời Phạm Tuyên là một kho tiểu thuyết bề bộn với rất nhiều cung bậc. Có thể tóm tắt bằng hai câu thơ xuất thần của Phạm Tiến Duật, một trong những thính giả rất yêu nhạc của Phạm Tuyên:
Cây cúc đắng quên lòng mình đang đắng,
Trổ hoa vàng dọc suối để ong bay.(9)
Phạm Tuyên luôn bày tỏ niềm vui và niềm tin về sự cởi mở của giới nghiên cứu trong việc nhìn nhận, đánh giá lại các nhân vật lịch sử với mong muốn được chứng kiến một sự giải tỏa về thân phụ và gia đình mình.
Thực tế trong cuộc đấu tranh anh hùng, bất khuất giành độc lập tự do của dân tộc Việt Nam , giai cấp vô sản đã chiến đấu để:
Được thì thế giới vui chung,
Mất thì chỉ mất cái gông trên đầu.
Trí thức dấn thân cũng có được, có mất. Sử học cần quan tâm làm rõ, nhất là trong khi đất nước ta đang xây dựng nền kinh tế tri thức đề tiến vào văn minh trí tuệ.
* GS. Nguyên Viện trưởng Viện Sử học Việt Nam
(1) Từ tuổi lục tuần (1986) trở đi. tôi đã có hoài bão noi gương “Tư Mã", viết về "Những mẩu chuyện đời theo dòng lịch sử". Một số bài đã được công bố trên các sách: Sử học và hiện thực, tập I, II, III hoặc in trên báo chí trung ương và địa phương, như chuyện viết về họ Khúc, về Nguyễn Thái Học, về nhà Mạc, về họ Trịnh, về Tự Lực văn đoàn, về chủ bút báo Nam Phong Phạm Quỳnh. Tất cả đã đưa lại hiệu quả đáng khích lệ: Nhờ có các cuộc Hội thảo khoa học tiếp theo mà các nhân vật lịch sử đó đã được làm sáng tỏ thêm, các khu lưu niệm đã được xây dựng như: Đền thờ các Tiên chúa họ Khúc ở Ninh Giang, Hải
Dương; Dương Kinh nhà mạc ở Kiến Thụy, Hải Phòng; "Nhà khách văn chương" của Tự Lực văn đoàn ở Cẩm Giàng, Hải Dương; Những cống hiến về văn hóa của Phạm Quỳnh đang được làm sáng tỏ...
(2) “Báo cáo chính trị tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ II Đảng Lao động Việt Nam , 3-1951". Hồ Chí Minh tuyển tập: ST, 1960, tr. 366, 367.
(3) Lê Xuân Phương (chủ biên). Nguyễn Việt. Hướng Tân (cộng tác viên), Sơ thảo Địa lý Việt Nam . Nxb Văn Sử Địa, Hà Nội, 1957, tr. 148.
* Gọi đúng tên cầu là Trường Tiền (BBT).
(4) Lê Xuân Phương (và các cộng tác viên), Sđd, tr. 148.
(5) Còn một số lời truyền đạt lại khác, có nội dung tương tự. Trên đây là nội dung mà tôi (Văn Tạo) tiếp nhận dược từ đồng chí Cù Huy Cận, nhân dịp trao đổi với đồng chí ấy trong cuộc Hội thảo về Biên niên lịch sử Chính phủ, tổ chức tại Hạ Long, năm 2001.
(6) Thanh Tùng "Đất nước trọn niềm vui”, báo Tiền Phong, cuối tháng 4 - 2010. tr. 4.
(7) Hà Cừ - Đinh Thành "Trò chuyện với nhạc sĩ Phạm Tuyên", Báo Hải Dương, Xuân Kỷ Sửu, 2009. tr. 25.
(8) Trần Mỹ Hiền “Nhạc sĩ Phạm Tuyên: Giải thưởng lớn nhất là có chỗ đứng trong quần chúng", An ninh thế giới, số 958 ngày 15-5-2001.
(9) Hà Cừ - Đinh Thành, đã dẫn (chú thích 7).








