Liên hiệp các hội khoa học và kỹ thuật Việt Nam
Thứ tư, 29/06/2011 18:37 (GMT+7)

Về các nguồn lực phát triển và những gợi ý đối với Việt Nam

Tùy vào cách tiếp cận khác nhau người ta phân loại nguồn lực khác nhau, nhưng nhìn chung có hai loại: thứ nhất, theo đặc trưng kinh tế - xã hội, nguồn lực kinh tế bao gồm tài nguyên thiên nhiên, vốn, lao động, khoa học- công nghệ và nguồn lực phi kinh tế bao gồm thể chế chính trị, đường lối, cơ chế chính sách, đặc điểm văn hóa, dân tộc; thứ hai, theo khu vực hành chính quốc gia, có nguồn lực trong nước và nguồn lực nước ngoài. Bài viết này nêu lên một số quan điểm sử dụng các nguồn lực kinh tế trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội qua các giai đoạn, từ đó có một số gợi ý đối với nền kinh tế Việt Nam .

1. Một số quan điểm về sử dụng các nguồn lực kinh tế

- Trường phái kinh tế cổ điển

Trong lịch sử, kinh tế chính trị tư sản cổ điển ra đời vào nửa cuối thế kỷ XVII khi chủ nghĩa trọng thương tan rã, có vai trò quan trọng là xây dựng cơ sở lý luận cho sự ra đời, phát triển của chủ nghĩa tư bản, trong đó đề cập đến các nguồn lực phát triển kinh tế là một đóng góp to lớn.

William Sir Petty (1623 - 1687) nhà kinh tế học người Anh rất coi trọng đồng tiền, cụ thể là vàng, bạc, nó là của cải của quốc gia. Thiếu tiền thì nền kinh tế bị đình trệ, cũng như con người thiếu máu thì cơ thể ngừng hoạt động. Muốn gia tăng tiền, tăng của cải, phải tạo ra những loại sản phẩm có thể thu hút được tiền ở nước ngoài vào. Con đường làm tăng tiền, tăng của cải là phát triển thương mại, đặc biệt là ngoại thương. Về lao động và đất đai, William Petty có câu nói nổi tiếng: lao động là cha, đất đai là mẹ để tạo ra của cải. Ông là người đầu tiên nêu lên khái niệm "địa tô chênh lệch" và kết luận rằng, vị trí khác nhau của cải đất đai đối với thị trường và độ màu mỡ khác nhau của đất đai làm cho năng suất lao động nông nghiệp khác nhau. Do quá nhấn mạnh đến lao động và đất đai nên William Petty cho rằng, mọi của cải được tạo ra bởi hai mẫu số tự nhiên là đất đai và lao động và lấy đó làm thước đo giá trị cho tất cả sản phẩm khác, điều này không đúng với lý luận về giá trị. Tuy nhiên, ở vào thế kỷ XVII, nền kinh tế chủ yếu là nông nghiệp thì chúng ta cũng có thể hiểu được điều này.

Adam Smith (1723 - 1790) và Davit Ricardo (1772 - 1823) đều nhấn mạnh đến các nhân tố làm gia tăng của cải là đất đai, lao động, vốn.

Trong cuốn "Tìm hiểu về bản chất và nguồn gốc của của cải của các nước" năm 1776, Adam Smith viết: "Lao động hàng năm của mỗi nước là nguồn ban đầu cung cấp cho nước đó tất cả những thứ cần thiết và tiện nghi cho cuộc sống mà nước đó dùng cho mỗi năm". Ông cho rằng lao động, nhất là kỹ năng và tài khéo léo của lao động là điều kiện đầu tiên tạo ra của cải.

Davit Ricardo cũng đề cao vai trò của lao động và đất đai trong việc tạo ra của cải nhưng ông cũng chỉ ra sự hạn chế của đất đai. Theo ông, trong sản xuất nông nghiệp có quy luật đất đai mầu mỡ ngày càng giảm dần, đối với nền nông nghiệp tự cung tự cấp thì năng suất lao động cận biên bằng không. Đó là giới hạn của đất đai trong tăng trưởng kinh tế. Tuy nhiên, quy luật năng suất giảm dần chỉ đúng trong nền nông nghiệp sản xuất nhỏ, tự cung tự cấp.

- Quan điểm của Các Mác

Các Mác (1818 - 1883) nhà lý luận thiên tài của chủ nghĩa cộng sản khoa học. Về các nguồn lực phát triển, C. Mác vừa phê phán vừa kế thừa có chọn lọc các lý thuyết kinh tế trước đó đồng thời bổ sung, phát triển. Các nguồn lực phát triển kinh tế bao gồm tài nguyên thiên nhiên, lao động, vốn, tiến bộ kỹ thuật. Trong đó ông chỉ rõ, đất đai là điều kiện tự nhiên không thể thiếu được cho sản xuất, đời sống, đặc biệt là tạo ra nguyên liệu cho công nghiệp chế biến, lương thực, thực phẩm bảo đảm cho nhu cầu thiết yếu của con người. Con người trước hết phải có cái ăn, mặc, ở, rồi mới tính đến việc làm chính trị.

Lao động là nhân tố kinh tế, yếu tố đầu vào để tạo ra sản phẩm đầu ra. Nguồn lao động là nhân tố quyết định trong việc khai thác, sử dụng, tái tạo và phát triển các nguồn lực khác. C. Mác chỉ rõ, lao động sống gắn với người lao động, người lao động càng được đào tạo thì càng nâng cao trình độ chuyên môn và năng lực công tác. Còn lao động quá khứ là lao động đã kết tinh trong sản phẩm, chẳng hạn như máy móc thiết bị, ông gọi là lao động chết. Trong quá trình sản xuất, nhờ có lao động sống mà lao động chết sống lại, nó được cải tử hoàn sinh và chuyển một phần giá trị của mình vào sản phẩm mới (bằng v+m). C. Mác chỉ rõ, trong chủ nghĩa tư bản thì sức lao động của giai cấp công nhân là thuê vừa tạo ra của cải để nuôi sống mình, vừa tạo ra giá trị thặng dư cho giai cấp tư sản.

Đối với kỹ thuật công nghệ, C. Mác nhấn mạnh, đây là nhân tố quyết định đến năng suất lao động, tiến bộ khoa học - công nghệ sẽ làm gia tăng của cải gấp bội phần so với các phương tiện trước đó. Khoa học - công nghệ phát triển sẽ trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp làm gia tăng của cải xã hội, đến một lúc nào đó việc lao động trực tiếp, nặng nhọc của người lao động sẽ được thay thế bằng việc tổ chức quản lý gián tiếp, con người sử dụng năng lực trí tuệ nhiều hơn là năng lực cơ bắp. Kinh tế phát triển, khoa học - công nghệ càng phát triển thì nhu cầu về vốn đầu tư ngày càng lớn để đổi mới kỹ thuật công nghệ, vì vậy, việc tiết kiệm, tích lũy vốn là biện pháp để tái sản xuất mở rộng của nền kinh tế.

- Quan điểm của trường phái kinh tế tân cổ điển

Các nhà kinh tế học tân cổ điển đều thống nhất về các nguồn lực phát triển như trường phái cổ điển nhưng có bổ sung thêm. Nếu như trường phái cổ điển xác định việc sử dụng các yếu tố nguồn lực cho tăng trưởng phải tăng theo một tỷ lệ tương ứng nhất định, thì các nhà kinh tế học cổ điển cho rằng không nhất thiết phải như vậy mà trong từng giai đoạn, tùy vào điều kiện từng ngành, lĩnh vực có thể tăng, giảm các nguồn lực khác nhau phù hợp, có hiệu quả.

Sơ đồ 1 cho thấy, để tăng gấp đôi sản lượng của một nhà máy, trường phái cổ điển sẽ tăng cả vốn và lao động tương ứng từ A đến B. Các nhà kinh tế học tân cổ điển có thể chọn C đầu tư kỹ thuật trung bình, vốn ít nhưng sử dụng được nhiều lao động, hoặc có thể chọn D đầu tư công nghệ cao, vốn nhiều và giảm lao động sống. Các phương án lựa chọn ấy đều thực hiện được mục tiêu tăng sản lượng gấp đôi. Từ đó, các nhà kinh tế học tân cổ điển đưa ra hai khái niệm: "phát triển kinh tế theo chiều sâu" là gia tăng số lượng vốn cho một đơn vị lao động trong sản xuất; "phát triển kinh tế theo chiều rộng" là sự gia tăng vốn phù hợp với gia tăng số lượng lao động.

- Quan điểm của P. A. Samuelson

P. A. Samuelson có khái niệm "đầu vào", "đầu ra". Đầu vào là các hàng hóa dịch vụ được các hãng sử dụng trong quá trình sản xuất. Một nền kinh tế sử dụng công nghệ sẵn có của mình để kết hợp các yếu tố đầu vào nhằm sản xuất ra các đầu ra. Đầu ra là các hàng hóa và dịch vụ hữu dụng khác nhau, đó là kết quả của quá trình sản xuất. Một tên gọi khác của đầu vào là các yếu tố sản xuất. Từ đó, ông xác định tổng mức cung của nền kinh tế được tạo ra bởi các yếu tố đầu vào của quá trình sản xuất là tài nguyên thiên nhiên, lao động, vốn, khoa học - công nghệ Y = f (R,L,K,T), trong đó Y là sản lượng đầu ra, R là tài nguyên thiên nhiên, L là lao động, K là vốn, T là khoa học - công nghệ.

Trong quá trình khai thác, sử dụng các nguồn lực, P.A. Samuelson đã đưa ra khái niệm "đường giới hạn khả năng sản xuất". Các xã hội, các quốc gia không thể có mọi thứ mà họ muốn, do bị ràng buộc bởi các nguồn lực và công nghệ hiện có. Do đó, các nước phải tính toán để giành bao nhiêu nguồn lực cho lĩnh vực này, bao nhiêu cho lĩnh vực khác. "Đường giới hạn khả năng sản xuất mô tả sản xuất tối đa mà một nền kinh tế có thể đạt được với số lượng đầu vào và kiến thức công nghệ sẵn có, nó cho biết các lựa chọn khác nhau có thể có đối với xã hội".

- Brandley R.Schiller cho rằng, những nguồn lực dùng để sản xuất ra hàng hóa dịch vụ được gọi là các yếu tố sản xuất. Có bốn yếu tố sản xuất cơ bản: đất đai, lao động, vốn, năng lực kinh doanh. Schiller không gọi là khoa học - công nghệ mà gọi là năng lực kinh doanh. Theo ông, năng lực kinh doanh là việc kết hợp những nguồn lực để sản xuất ra sản phẩm. Ông nêu lên khái niệm "khan hiếm" là do sự mất cân đối giữa nhu cầu của chúng ta và những nguồn lực sẵn có. Do đó buộc con người phải có những lựa chọn kinh tế, sử dụng nguồn lực nào, sản xuất cái gì là phải tính toán.

- Ngân hàng thế giới (WB). Trên cơ sở nghiên cứu gần 120 nước trong giai đoạn thực hiện mục tiêu thiên niên kỷ, WB tập hợp lại thành cuốn sách: "Của cải của các quốc gia ở đâu? Đo lường của cải thế kỷ XXI" kết luận: Của cải của các quốc gia không phải chủ yếu do các nguồn lực vật chất tạo ra như tài nguyên, vốn, lao động nói chung mà phần lớn do nguồn vốn vô hình tạo ra. Vốn vô hình bao gồm những kỹ năng, bí quyết của lực lượng lao động, vốn xã hội, sự tin tưởng nhau của những người cùng một xã hội làm việc vì mục đích chung. Kết quả nghiên cứu cho rằng, vốn vô hình phần lớn nhất trong tổng giá trị của cải, bao gồm nguồn lực con người, quản lý và các nhân tố khác, là các nhân tố khó xác định được giá trị thực.

Sau khi so sánh số liệu thống kê của các nhóm nước, WB kết luận: Vốn vô hình tạo nên 80% tổng của cải của các nước có thu nhập cao, chiếm tỷ trọng rất thấp hoặc bằng không ở các nước thu nhập thấp, trung bình. Các nước thu nhập thấp phụ thuộc nhiều vào tài nguyên thiên nhiên, tỷ trọng vốn tự nhiên lớn hơn tỷ trọng tăng lên theo mức thu nhập. Việc sử dụng kém hiệu quả các tài sản vô hình và tài sản sản xuất trong hầu hết các nền kinh tế phụ thuộc vào tài nguyên dẫn đến hậu quả bất thường là tỷ trọng vốn vô hình âm ở những nước này.

- William Easterley, nhà kinh tế học người Mỹ, chuyên nghiên cứu tăng trưởng kinh tế và viện trợ nước ngoài đã rút ra những kết luận cần phải tham khảo. Qua khảo sát thực tế ở nhiều nước, nhất là các nước nghèo, ông viết cuốn sách "Truy tìm căn nguyên tăng trưởng". Theo ông, tăng trưởng và phát triển kinh tế không phải chủ yếu do các nguồn lực kinh tế như các nhà kinh tế học trước đây đã đề cập mà chủ yếu là do tri thức và động cơ của con người. Ở những nước giàu có về tài nguyên thiên nhiên nhưng do thiếu tri thức để khai thác và sử dụng, cùng với động cơ không đúng thì không thể có tăng trưởng và phát triển kinh tế. Nhiều nước nhận vốn viện trợ khá lớn nhưng do không biết cách tổ chức quản lý, sử dụng cùng với động cơ của nhân dân và chính phủ không rõ nên lãng phí, kém hiệu quả.

Ông kết luận: "Đầu tư vốn hữu hình không phải là chìa khóa duy nhất cho tăng trưởng. Đầu tư trực tiếp vào tri thức rất quan trọng… Khi xã hội ngày càng có nhiều ý tưởng hiệu quả, mỗi một ý tưởng bổ sung lại đóng góp ngày càng nhiều sản lượng tăng thêm. Nếu đầu tư vào tri thức thì có thể lan truyền thêm. Nếu đầu tư vào tri thức thì có thể lan truyền tới tất cả mọi người tri thức mới sẽ làm tăng năng suất của tất cả các tri thức và máy móc sẵn có trong toàn bộ nền kinh tế".

Những quan điểm kinh tế qua các thời kỳ hầu hết đều có đặc điểm chung là, các nguồn lực kinh tế như tài nguyên thiên nhiên, lao động, vốn, khoa học - công nghệ là các nhân tố sản xuất, các yếu tố đầu vào có vai trò quan trọng cho việc tăng trưởng và phát triển kinh tế. Tuy nhiên, trong mỗi thời kỳ khác nhau, tùy vào trình độ phát triển kinh tế - xã hội của mỗi nước mà việc khai thác, sử dụng các nguồn lực cũng không giống nhau… Vào thế kỷ XVII - XVIII, nền sản xuất còn tự nhiên, khoa học - công nghệ chưa phát triển thì lao động, đất đai là yếu tố đầu tiên tạo ra của cải cho xã hội. Trong thời kỳ sản xuất công nghiệp, người ta nhấn mạnh đến công nghệ cao, hàm lượng chất xám, nguồn nhân lực chất lượng cao. Ở những thời kỳ trước, các nguồn lực vật chất hữu hình là rất quan trọng, ngày nay người ta lại coi trọng nguồn vốn vô hình, nó đóng góp chủ yếu cho tăng trưởng và phát triển kinh tế. Những sự gợi mở về cách thức lựa chọn khai thác, sử dụng các nguồn lực trong các quan điểm kinh tế có ý nghĩa thời sự trong điều kiện ngày nay.

2. Những gợi ý đối với Việt Nam

Nước ta đang tiến hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong bối cảnh thế giới có nhiều biến đổi. Khoa học - công nghệ phát triển mạnh mẽ nhanh chóng, trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp, thúc đẩy phân công lao động xã hội ngày càng sâu sắc trên phạm vi toàn thế giới, thay cho tình trạng sản xuất phân tán, riêng lẻ là quá trình hợp tác phân công, trao đổi mới có thể tạo ra sản phẩm toàn vẹn. Toàn cầu hóa kinh tế thế giới, kết quả của sự phát triển lực lượng sản xuất dẫn đến sự dịch chuyển và phân bổ các nguồn lực trên phạm vi toàn cầu. Kinh tế tri thức đã xuất hiện ở một số nước, kết quả của sự phát triển khoa học - công nghệ, nhất là công nghệ thông tin đang tạo ra một cuộc cạnh tranh, rượt đuổi giữa các nền kinh tế.Sau cuộc khủng hoảng kinh tế - tài chính trên thế giới, hầu hết các nước phát triển buộc phải thay đổi chiến lược và cơ cấu lại nền kinh tế. Việt Nam đang mở cửa hội nhập ngày càng sâu rộng vào nền kinh tế toàn cầu, tình hình thế giới vừa tạo ra cơ hội, vừa đặt ra những thách thức không nhỏ trong quá trình khai thác, sử dụng các nguồn lực cho tăng trưởng và phát triển kinh tế. Để hội nhập và phát triển ổn định cần quan tâm một số vấn đề sau đây:

- Thay đổi tư duy phát triển

Đây là vấn đề quan trọng hàng đầu không thể không làm, không được chậm trễ. Bài học về đổi mới tư duy của Đảng ta từ Đại hội VI, trước hết là tư duy kinh tế đã đưa nước ta ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội, ổn định và phát triển. Trong điều kiện ngày nay, chúng ta phải thay đổi tư duy xơ cứng theo kiểu cơ cấu, tư duy nhiệm kỳ theo sự năng động, linh hoạt, mềm dẻo của cơ chế thị trường; thay đổi chiến lược tăng trưởng từ chiều rộng sang chiều sâu; thay đổi tư duy chạy theo số lượng bằng tư duy chất lượng, hiệu quả. Trong việc khai thác, sử dụng các nguồn lực phải xóa bỏ bệnh thành tích chạy theo số lượng bằng việc lựa chọn khai thác lợi thế so sánh; thay cho quan điểm tiêu dùng trước mắt bằng quan điểm giải quyết hài hòa mối quan hệ giữa lợi ích trước mắt và lợi ích dài lâu; thay cho cung cách làm ăn riêng lẻ, tự phát, cục bộ địa phương bằng sự liên kết hợp tác, phân công để khai thác lợi thế của nhau, sử dụng các nguồn lực có hiệu quả.

Thay đổi một thói quen đã khó, thay đổi tư duy kinh tế một cách căn bản, đồng bộ lại càng khó khăn hơn, bởi lẽ nó động chạm đến lợi ích của nhiều người, hơn nữa cái cũ thường trì trệ, luôn tìm cách gây cản ngại, chống lại cái mới, nhưng không phải không làm được. Chúng ta phải nhìn đúng sự thật, dũng cảm để vượt qua chính mình. Cần đẩy mạnh công tác nghiên cứu lý luận và tổng kết thực tiễn cả trong và ngoài nước để nâng cao nhận thức đồng thời làm cơ sở cho việc bổ sung, hoàn thiện đường lối, chính sách cho phù hợp. Thay đổi tư duy trước hết là tư duy lý luận. Không có một lý luận dẫn đường thì cũng không thể có một phong trào thực tiễn nào cả. Ở đây, nếu không có một tư duy kinh tế đúng đắn thì cũng không có sự thay đổi nào mà vẫn làm theo lối mòn cũ. Vì vậy, thay đổi tư duy phát triển khi thực tiễn trong và ngoài nước đã có nhiều biến đổi là yêu cầu đặt ra vừa cơ bản vừa cấp bách ở nước ta hiện nay.

- Lựa chọn các nguồn lực trong quá trình phát triển

Đối với các nguồn lực nước ngoài, chúng ta phải tính toán để thu hút những nguồn lực phù hợp, cần thiết. Về nguyên tắc chung, phải hạn chế nhập khẩu những loại hàng hóa dịch vụ nào mà điều kiện trong nước có thể sản xuất mà chúng ta có thể làm được để thay thế nhập khẩu. Cần thu hút vốn, công nghệ cao và trình độ, kinh nghiệm quản lý tiên tiến của nước ngoài. Hạn chế và tiến tới chấm dứt việc nhập khẩu công nghệ lạc hậu vào nước ta. Hiện nay, cả nước có gần 4.500 doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài nhưng công nghệ trung bình và lạc hậu khoảng 70%. Từ nay về sau cần phải biết từ chối những dự án công nghệ trung bình, lạc hậu, chọn công nghệ cao, công nghệ nguồn trong khu vực có vốn đầu tư nước ngoài.

Đối với các nguồn lực trong nước, cần có kế hoạch đầu tư phát triển gắn với việc khai thác, sử dụng hợp lý, có hiệu quả. Đầu tư cho việc bảo vệ, tái tạo, phát triển các nguồn tài nguyên thiên nhiên, đặc biệt là đầu tư phát triển nguồn nhân lực và khoa học - công nghệ. Phải thật sự coi giáo dục - đào tạo và khoa học - công nghệ là quốc sách hàng đầu. Trong việc khai thác, sử dụng các nguồn lực, cần có chính sách, biện pháp để khai thác nguồn vốn vô hình và các tiến bộ khoa học - kỹ thuật. Đối với các nguồn tài nguyên thiên nhiên, bên cạnh việc khai thác, sử dụng có hiệu quả tiềm năng, lợi thế, cần có kế hoạch giữ gìn, bảo vệ, nhất là những loại tài nguyên có tầm chiến lược. Hạn chế khai thác, bảo vệ các nguồn tài nguyên thiên nhiên ở nước ta hiện nay sẽ có những lợi thế sau đây:

Thứ nhất, ta có trong tay nguồn tài nguyên phong phú, đa dạng có thể tạo ra nhiều sản phẩm mà các nước đang khan hiếm hoặc đã cạn kiệt. Trong thế kỷ XX, loài người đã từng chứng kiến những thời kỳ khủng hoảng năng lượng, nguyên liệu như dầu mỏ, khí đốt, than đá và khủng hoảng lương thực. Quan hệ cung cầu trong kinh tế căng thẳng làm phá vỡ quan hệ ngoại giao thân thiện, dẫn đến những cuộc chiến tranh cục bộ, hoặc mâu thuẫn, xung đột giữa các quốc gia dân tộc ở các khu vực trên thế giới. Những cuộc khủng hoảng này sẽ ngày càng gia tăng do nhu cầu sản xuất và tiêu dùng tăng lên, trong khi đó tài nguyên thiên nhiên thì có hạn. Dĩ nhiên, nhờ có tiến bộ khoa học - công nghệ, ngày nay con người có thể tạo ra các sản phẩm nhân tạo nhưng không phải là tất cả, rất nhiều sản phẩm cần thiết cho sản xuất, đời sống vẫn phải dựa vào nguồn tài nguyên thiên nhiên. Do đó, nếu giữ gìn, bảo vệ được các nguồn tài nguyên thiên nhiên thì đây là lợi thế của chúng ta.

Thứ hai, giữ được tài nguyên thiên nhiên để đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa thay vì phải nhập khẩu. Trước đây khi Chính phủ chưa đóng cửa rừng, mỗi năm nước ta xuất khẩu trên 1 triệu m 3gỗ tròn. Hiện nay, ngành công nghiệp chế biến gỗ nước ta phải nhập khẩu gỗ từ các nước mỗi năm hơn 1 tỷ USD. Theo dự báo của các chuyên gia, đến năm 2013, Việt Nam phải nhập khẩu than đá mới đáp ứng nhu cầu sản xuất trong nước nhưng hiện tại, mỗi năm lại xuất khẩu 20 triệu tấn than. Dầu mỏ, khí đốt, than đá, quặng kim loại là tài nguyên hữu hạn nên cần phải được giữ gìn, bảo vệ và sử dụng hợp lý. Đất đai là tư liệu sản xuất đặc biệt, trong quá trình công nghiệp hóa, đô thị hóa đất đai ở nước ta bị thái hóa bạc màu, bị ô nhiễm, đất sản xuất nông nghiệp bị thu hẹp. Quỹ đất nông nghiệp cả nước có 9,3 triệu ha, trong đó đất lúa 4,1 triệu ha. Từ năm 2001 - 2007 đã giảm đi 500.000 ha đất nông nghiệp, riêng đất trồng lúa giảm 50.000 ha/năm. Đất nông nghiệp bị thu hẹp đe dọa đến an ninh lương thực và nguyên liệu cho phát triển công nghiệp, tác động xấu đến lao động, việc làm và an sinh xã hội, chứa đựng những mầm mống gây bất ổn về chính trị, xã hội. Vì vậy, giữ gìn, bảo vệ tài nguyên thiên nhiên ở nước ta có ý nghĩa vô cùng quan trọng cả về kinh tế, chính trị, xã hội.

Thứ ba, chuyển sang các nguồn lực khác, hạn chế việc khai thác, sử dụng tài nguyên thiên nhiên sẽ giữ cho Việt Nam khỏi rơi vào "bẫy thu nhập trung bình" như một số nước. Thông thường, các nước nghèo tiến hành công nghiệp hóa, giai đoạn đầu dựa chủ yếu vào nguồn lực trong nước, nhất là các nguồn tài nguyên thiên nhiên. Nhiều nước thực hiện chiến lược hướng về xuất khẩu, tăng cường khai thác tài nguyên thiên nhiên nhưng do công nghệ lạc hậu nên xuất khẩu sản phẩm phần lớn dưới dạng nguyên liệu thô, sơ chế làm cạn kiệt tài nguyên, hiệu quả thấp. Giai đoạn sau, nhờ thu hút vốn, công nghệ nước ngoài nên phát triển các ngành nghề truyền thống và làm gia tăng giá trị gia tăng cho sản phẩm chế biến. Một số nước đạt tốc độ tăng trưởng khá cao trong hàng chục năm, đưa họ vượt qua ngưỡng các nước thu nhập thấp và đứng vào hàng các nước thu nhập trung bình. Đến đây, nước nào biết nhanh chóng chuyển sang các nguồn lực khác, xây dựng chiến lược tăng trưởng mới, đầu tư vào công nghệ cao tạo ra sản phẩm xuất khẩu có hàm lượng chất xám cao thì sẽ đứng vào hàng các nước có thu nhập cao như Hàn Quốc, Đài Loan, Hồng Kông, Singapore . Ngược lại, không dịch chuyển nguồn lực, vẫn tập trung khai thác tài nguyên thiên nhiên thì phát triển chậm chạp, khó khăn, sẽ rơi vào bẫy thu nhập trung bình, bởi vì các nguồn tài nguyên thiên nhiên cũng đã bị giới hạn. Năm 2009, thu nhập bình quân đầu người của Việt Nam đạt 1.063 USD, vượt ngưỡng nhóm các nước thu nhập thấp, nhưng nếu không dịch chuyển nguồn lực và thay đổi chiến lược phát triển thì sẽ khó tránh khỏi rơi vào bẫy thu nhập trung bình. Tăng trưởng kinh tế chỉ là con số ảo nếu chỉ dựa chủ yếu vào việc khai thác, bóc lột quá mức các nguồn tài nguyên thiên nhiên.

- Thay đổi chiến lược tăng trưởng từ chiều rộng sang chiều sâu

Dưới góc độ vĩ mô, tăng trưởng theo chiều rộng là việc gia tăng sản phẩm hàng hóa dịch vụ tỷ lệ thuận với gia tăng các yếu tố đầu vào. Muốn tăng sản phẩm đầu ra phải tăng các yếu tố vật chất đầu vào như vốn, lao động, tài nguyên thiên nhiên. Tăng trưởng theo chiều rộng thì sản phẩm có tăng nhưng hiệu quả thấp, làm mất cân đối trong nền kinh tế, dẫn đến cạn kiệt tài nguyên, tàn phá môi trường. Ở nước ta, để có tốc độ tăng trưởng 7 - 8% GDP phải có tỷ lệ vốn đầu tư trên 40% GDP, đây là tỷ lệ khá cao so với các nước. Để tăng sản lượng than từ 30 lên 40 triệu tấn/năm phải đầu tư thêm máy móc, thiết bị, tăng thêm nguồn năng lượng, gỗ chống lò. Tăng thêm điện thì sẽ bị thiếu hụt ở các đơn vị khác, tăng thêm gỗ chống lò phải khai thác rừng… Do vậy, phát triển theo chiều rộng thì hiệu quả thấp mà không bền vững.

Tăng trưởng theo chiều sâu là việc gia tăng sản phẩm hàng hóa dịch vụ nhưng không tăng thêm các yếu tố vật chất đầu vào, hoặc có nhưng tăng ít do sử dụng công nghệ và hàm lượng chất xám trong sản xuất, hoặc giảm mức tiêu hao năng lượng, nguyên liệu trên một đơn vị sản phẩm để tăng năng suất lao động nhờ áp dụng công nghệ hiện đại. Ở Việt Nam , tăng 1% GDP phải tiêu tốn thêm 2% năng lượng. Trong khi đó EU trong 10 năm, GDP tăng 50% nhưng tiêu hao năng lượng không tăng.

Xét các nhân tố đóng góp vào tăng trưởng kinh tế gồm K là vốn, L là lao động, TFP (Total Factor Productivity) là năng suất các nhân tố tổng hợp thì ở Việt Nam mức đóng góp của TFP còn thấp. Giai đoạn 1991 - 2000, mức đóng góp bình quân của K 67,5%, của L 19%, của TFP 13,5%. Tương tự, giai đoạn 2001 - 2008 lần lượt là 51%, 19,6%, 29,3%. Theo Bộ Kế hoạch và Đầu tư, các nhân tố đóng góp cho tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam , K 52%, L 20%, TFP 28%.

Thay đổi chiến lược tăng trưởng là vấn đề khó khăn, lâu dài cần chuẩn bị các điều kiện đồng bộ, trong đó phải quan tâm đến những vấn đề như nâng cao nhận thức, phát huy năng lực nội sinh, nhất là khai thác, sử dụng được nguồn vốn vô hình, xây dựng kết cấu hạ tầng cứng và mềm, có chính sách hỗ trợ, khuyến khích phát triển các lĩnh vực ưu tiên, tập trung đầu tư cho giáo dục - đào tạo và khoa học - công nghệ, nâng cao tiềm lực khoa học - công nghệ, lựa chọn các ngành mũi nhọn đầu tư có trọng điểm, thu hút công nghệ cao, công nghệ buồn của nước ngoài; thực hiện chính sách khấu hao nhanh để đổi mới công nghệ tránh hao mòn vô hình, tăng giá trị gia tăng, hạn chế và tiến tới chấm dứt việc xuất khẩu sản phẩm thô, sơ chế.

- Cơ cấu lại nền kinh tế

Nền kinh tế nước ta còn mất cân đối nhiều mặt. Đó là, giữa tốc độ tăng trưởng và hiệu quả, giữa phát triển và bền vững, giữa thị trường trong nước và nước ngoài, giữa nhu cầu phát triển và hạ tầng cơ sở, mất cân đối trong phân bổ nguồn lực, giữa phát triển và thể chế, giữa tập quyền và phân quyền. Trong đó, bao trùm là mất cân đối giữa nhu cầu phát triển và tính bền vững. Vì vậy, cơ cấu lại nền kinh tế hiện nay là rất cần thiết.

Trên cơ sở điều tra xác định các nguồn lực, đánh giá đúng tiềm năng, thế mạnh và những hạn chế, dự báo được tình hình phát triển trong và ngoài nước để tiến hành cơ cấu nền kinh tế cho phù hợp. Bổ sung, điều chỉnh quy hoạch các vùng, định hướng phát triển ho phù hợp với yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa theo hướng mở cửa hội nhập, hợp tác phân công trong phạm vi cả nước và với nước ngoài. Hạn chế tình trạng tự phát, riêng lẻ mạnh ai nấy làm giữa các tỉnh, các vùng như hiện nay.

Cơ cấu lại các ngành, lĩnh vực phục vụ cho chiến lược phát triển theo chiều sâu, phát triển các ngành mũi nhọn có hàm lượng chất xám cao như công nghệ thông tin, công nghệ sinh học, công nghệ vật liệu mới, nông nghiệp công nghệ cao. Đầu tư phát triển các loại dịch vụ du lịch, dịch vụ cảng biển, vận tải biển, bưu chính viễn thông, tài chính ngân hàng, bảo hiểm, dịch vụ tư vấn, dịch vụ khoa học - công nghệ, từng bước gắn với phát triển kinh tế tri thức.

Cơ cấu lại doanh nghiệp và sản phẩm. Xây dựng một số tập đoàn kinh tế mạnh dưới dạng công ty mẹ, công ty con sản xuất kinh doanh đa ngành nghề. Đối với các doanh nghiệp, sắp xếp lại bộ máy quản lý, cơ cấu lại kỹ thuật ngành nghề, có thể thu hẹp hoặc mở rộng quy mô tùy theo ngành nghề. Có cơ chế chính sách khuyến khích hoặc buộc các doanh nghiệp phải đổi mới công nghệ, gia tăng bí quyết kỹ thuật, tăng hàm lượng chất xám, từ đó cơ cấu lại sản phẩm để tăng giá trị gia tăng, đáp ứng nhu cầu thị trường. Ở nước ta hiện nay, trong số 21 sản phẩm, nhóm sản phẩm có đóng góp từ 0,5 - 1% GDP thì ½ trong số đó là các sản phẩm sơ chế, do đó hiệu quả thấp.

Rà soát lại và điều chỉnh cơ cấu đầu tư. Trong phạm vi cả nước, chính phủ phải điều chỉnh cơ cấu đầu tư giữa các vùng, các ngành cho phù hợp cả trong ngắn hạn và dài hạn. Việc đầu tư quá nhiều sân golf, sân bay, bến cảng, khu công nghiệp ở các địa phương làm thu hẹp đất sản xuất nông nghiệp, hiệu quả thấp, ô nhiễm môi trường. Trong khi đó đầu tư cho nông nghiệp những năm gần đây có xu hướng giảm dần. Cơ cấu đầu tư ở nước ta phải bảo đảm phân bổ nguồn lực hài hòa, hợp lý vừa tạo điều kiện cho sự liên kết, hợp tác phân công giữa các ngành, lĩnh vực và các địa phương.

Về cơ cấu chi ngân sách, nên giảm chi thường xuyên nhất là chi xây dựng nhà nghỉ cơ quan, mua sắm hàng xa xỉ phẩm, tăng chi cho đầu tư phát triển, chi trả nợ ở mức hợp lý, hạn chế thấp nhất mức bộ chi ngân sách, giảm dần và kiểm soát được các khoản nợ nước ngoài. Kiểm tra lại toàn bộ các khoản đầu tư công, xử lý dứt điểm nợ nần, cần thiết phải cắt giảm đầu tư ở những lĩnh vực sử dụng vốn kém hiệu quả làm thất thoát vốn ngân sách.

Nguồn lực kinh tế là các yếu tố đầu vào cho tăng trưởng và phát triển kinh tế. Tùy vào đặc điểm của mỗi nước, người ta có cách thức khai thác, sử dụng các nguồn lực khác nhau. Việt Nam đang tiến hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa với điểm xuất phát thấp nhưng ở vào thời kỳ khoa học - công nghệ phát triển nhanh chóng, làm gia tăng nhiều của cải, làm cho cơ cấu kinh tế thế giới chuyển dịch theo hướng tiến bộ. Trong bối cảnh đó, cần nhận thức được tình hình để lựa chọn và xây dựng chiến lược tăng trưởng phù hợp, từng bước cơ cấu lại nền kinh tế tạo điều kiện cho việc khai thác, sử dụng các nguồn lực hợp lý, có hiệu quả, bảo đảm sự phát triển bền vững.

Xem Thêm

Tạo thuận lợi hơn cho công tác tổ chức hội nghị, hội thảo quốc tế
Dự thảo Quyết định điều chỉnh, sửa đổi Quyết định 06/2020/QĐ-TTg ngày 21/02/2020 của Thủ tướng Chính phủ về tổ chức, quản lý hội nghị, hội thảo quốc tế tại Việt Nam nhằm giải quyết những vướng mắc trong quy định hiện hành, tăng cường phân cấp và đơn giản hóa thủ tục hành chính.
Để trí thức khoa học tham gia sâu hơn vào công tác Mặt trận
Hội thảo khoa học tại Hà Nội ngày 6/11/2025 đánh giá thực trạng sự tham gia, phối hợp của Liên hiệp Hội Việt Nam trong các hoạt động chung của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam giai đoạn 2015-2025. Các chuyên gia thẳng thắn chỉ ra những thành tựu, hạn chế và đề xuất giải pháp cho giai đoạn tới.
Còn nhiều rào cản trong thực thi bộ tiêu chuẩn ESG
Hầu hết các doanh nghiệp vừa và nhỏ (DNVVN) nói chung và DNVVN nói riêng trên địa bàn Thành phố Hà Nội gặp nhiều rào cản và thách thức trong thực thi tiêu chuẩn môi trường, xã hội và quản trị (ESG).
Đắk Lắk: Góp ý kiến văn kiện Đại hội lần thứ XIII của Đảng
Ngày 13/6, Liên hiệp hội tỉnh đã tổ chức góp ý kiến đối với dự thảo kế hoạch tổ chức hội nghị lấy ý kiến văn kiện Đại hội lần thứ XIII của Đảng và dự thảo Báo cáo chính trị trình Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh lần thứ XVII, nhiệm kỳ 2025 – 2030.
Hà Giang: Góp ý dự thảo sửa đổi Luật Chất lượng sản phẩm
Ngày 13/6, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật (Liên hiệp hội) tỉnh đã tổ chức hội thảo góp ý dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Chất lượng sản phẩm, hàng hoá (CLSPHH). Tham dự hội thảo có lãnh đạo đại diện các Sở, ban ngành của tỉnh, các hội thành viên Liên hiệp hộivà các chuyên gia TVPB.
Đắk Lắk: Hội nghị phản biện Dự thảo Nghị quyết về bảo đảm thực hiện dân chủ cơ sở
Sáng ngày 27/5/2025, tại trụ sở Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh Đắk Lắk (Liên hiệp hội) đã diễn ra Hội nghị phản biện và góp ý đối với Dự thảo Nghị quyết của Hội đồng nhân dân (HĐND) tỉnh Đắk Lắk về việc quyết định các biện pháp bảo đảm thực hiện dân chủ ở cơ sở trên địa bàn tỉnh.
Phú Thọ: Lấy ý kiến về Dự thảo Nghị quyết sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 2013
Sáng ngày 20/5/2025, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh Phú Thọ (Liên hiệp hội) tổ chức hội thảo lấy ý kiến của đội ngũ trí thức, chuyên gia, nhà khoa học về dự thảo Nghị quyết sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013.

Tin mới

Thanh Hoá: Phản biện đề án tiêu úng kênh Bắc Sông Chu, Nam sông Mã
Sáng ngày 18/12, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Thanh Hóa (Liên hiệp hội) tổ chức Hội thảo khoa học phản biện “Đề án nghiên cứu các giải pháp tiêu úng cho khu vực các huyện Yên Định, Thiệu Hóa, Thọ Xuân, Ngọc Lặc sau khi hệ thống kênh Bắc Sông Chu - Nam sông Mã đưa vào khai thác, sử dụng” do Sở Nông nghiệp và Môi trường làm cơ quan soạn thảo.
Quảng Trị: Ông Nguyễn Xuân Tuyến làm Chủ tịch Hội Luật gia
Sáng ngày 17/12, Hội Luật gia tỉnh Quảng Trị tổ chức Đại hội đại biểu Hội Luật gia tỉnh lần thứ I, nhiệm kỳ 2025 - 2030. Dự đại hội có ông Nguyễn Chiến Thắng, Phó Bí thư Tỉnh ủy, Chủ tịch Ủy ban MTTQVN tỉnh Quảng Trị; ông Trần Công Phàn, Phó Bí thư Đảng ủy, Phó Chủ tịch Thường trực Hội Luật gia Việt Nam.
Đoàn Thanh niên VUSTA trao yêu thương, lan tỏa tri thức tới điểm trường Ấm Hiêu, tỉnh Thanh Hóa
Ngày 18/12, Ban Chấp hành Đoàn Thanh niên Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (VUSTA) tham gia Lễ khánh thành Cụm công trình thư viện và nhà vệ sinh tại điểm trường Ấm Hiêu, Trường tiểu học Cổ Lũng, tỉnh Thanh Hóa, đồng thời trao tặng sách, truyện cho các em học sinh tại Điểm trường.
Hội nghị Hội đồng Trung ương Liên hiệp Hội Việt Nam lần thứ 11, khóa VIII
Sáng ngày 19/12, Đoàn Chủ tịch Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (Liên hiệp Hội Việt Nam) tổ chức Hội nghị Hội đồng Trung ương Liên hiệp Hội Việt Nam lần thứ 11, khóa VIII (2020-2025). Hội nghị được tổ chức nhằm đánh giá kết quả hoạt động năm 2025, xác định phương hướng, nhiệm vụ công tác năm 2026; đồng thời xem xét một số nội dung quan trọng thuộc thẩm quyền của Hội đồng Trung ương.
Phó Chủ tịch VUSTA Phạm Ngọc Linh dẫn đoàn Việt Nam tham dự Diễn đàn Kỹ sư Lan Thương - Mekong 2025
Ngày 7/12, tại Tp. Côn Minh, tỉnh Vân Nam, Trung Quốc, Diễn đàn Kỹ sư Lan Thương - Mekong 2025 đã được tổ chức với chủ đề “Kỹ thuật xanh và Phát triển bền vững”. Đoàn Việt Nam do Phó Chủ tịch Liên hiệp Hội Việt Nam Phạm Ngọc Linh - làm trưởng đoàn đã tham dự Diễn đàn. Tham gia Đoàn công tác có đại diện của Hội Thủy lợi Việt Nam, Ban Khoa học và Hợp tác quốc tế, Văn phòng Liên hiệp Hội Việt Nam.
Thúc đẩy ứng dụng AI trong quản lý năng lượng - Giải pháp then chốt giảm phát thải nhà kính
Ngày 17/12, tại phường Bà Rịa, thành phố Hồ Chí Minh (TP.HCM), Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (VUSTA) phối hợp cùng Sở Công Thương TP.HCM, Trung tâm Chứng nhận Chất lượng và Phát triển Doanh nghiệp và Công ty Cổ phần Tập đoàn Vira tổ chức Hội thảo khoa học “Giải pháp thúc đẩy ứng dụng AI trong quản lý, sử dụng năng lượng hiệu quả nhằm giảm phát thải khí nhà kính”.
Liên hiệp Hội Việt Nam đoạt Giải Ba Cuộc thi Chính luận về Bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng
Tham gia Cuộc thi Chính luận về Bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng lần thứ I, năm 2025 trong Đảng bộ MTTQ, các đoàn thể Trung ương, Liên hiệp Hội Việt Nam vinh dự có nhóm tác giả đoạt Giải Ba và Đảng uỷ Liên hiệp Hội Việt Nam là một trong 05 tổ chức Đảng được tặng Bằng khen của Ban Thường vụ Đảng ủy MTTQ, các đoàn thể Trung ương vì đã có thành tích xuất sắc trong tổ chức Cuộc thi.
Ngập úng đô thị - Thách thức và biện pháp giảm thiểu
Hội thảo “Ngập úng đô thị - Thách thức và biện pháp giảm thiểu” là diễn đàn trao đổi khoa học và thực tiễn, tập trung đánh giá toàn diện thực trạng, nguyên nhân và mức độ tác động của ngập úng đô thị, đồng thời đề xuất các giải pháp tổng hợp về quy hoạch, kỹ thuật, quản trị và chính sách…
VUSTA đón tiếp và làm việc với Đoàn công tác Hiệp hội Khoa học và Công nghệ Quảng Đông (GDAST)
Ngày 16/12, tại Trụ sở Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (VUSTA), Phó Chủ tịch VUSTA Phạm Ngọc Linh đã chủ trì buổi tiếp và làm việc với Đoàn công tác của Hiệp hội Khoa học và Công nghệ tỉnh Quảng Đông (GDAST), nhằm trao đổi thông tin, chia sẻ kinh nghiệm và thúc đẩy hợp tác trong lĩnh vực khoa học công nghệ.