Về các chính sách của Nhà nước nhằm phát triển bền vững ngành khai thách khoáng sản ở nước ta
1. Cấp phép hoạt động khoáng sản
Nhà nước tạo điều kiện cho tổ chức, cá nhân tham gia đầu tư thăm dò, khai thác, chế biến khoáng sản (khoản 2, điều 5, Luật khoáng sản). Bộ Tài nguyên và Môi trường là cơ quan cấp giấy phép khảo sát, thăm dò, giấy phép khai thác và chế biến khoáng sản thuộc diện Nhà nước quản lý. Đối tượng được cấp phép là các doanh nghiệp, kể cả doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, thuộc mọi thành phần kinh tế có đăng ký kinh doanh (điều 17, Nghị định số 160/NĐ-CP).
Công ty mẹ - Tập đoàn Công nghiệp Than và Khoáng sản Việt Nam là công ty nhà nước, hoạt động theo Luật Doanh nghiệp. Công ty mẹ có chức năng trực tiếp sản xuất kinh doanh và đầu tư tài chính vào doanh nghiệp khác. Tập đoàn là chủ sở hữu vốn Nhà nước đối với các doanh nghiệp trực thuộc và sở hữu trên 51% vốn đối với các doanh nghiệp mỏ. Công ty con là doanh nghiệp hạch toán độc lập do Tập đoàn nắm giữ 100% vốn điều lệ hoặc giữ cổ phần, vốn góp chi phối hoặc nắm quyền chi phối thông qua quyền khai thác tài nguyên khoáng sản, thị trường, thương hiệu, bí quyết công nghệ… (điều 1, Điều lệ và hoạt động của công ty mẹ - Tập đoàn Công nghiệp Than – Khoáng sản Việt Nam ban hành kèm theo Quyết định số 228/2006/QĐ-TTg, ngày 11/10/2006).
Quyết định số 345/2005/QĐ-TTg, ngày 26/12/2005 của Thử tướng Chính phủ v/v Thành lập Tập đoàn Công nghiệp Than – Khoáng sản Việt Nam tại điều 1 có nêu rõ “Nhà nước giao cho Tập đoàn Công nghiệp Than – Khoán sản Việt Nam quản lý tài nguyên, trữ lượng than, bôxít và các khoáng sản khác để tổ chức khai thác theo quy định pháp luật và điều lệ tổ chức, hoạt động của Tập đoàn”.
Trên cơ sở Quyết định 481/QĐ-QLTN, ngày 06/06/2005 của Bộ Công nghiệp v/v giao quản lý, bảo vệ và tổ chức thăm dò, khai thác than, TKV đã có quyết định giao và điều chỉnh ranh giới cho các đơn vị thành viên. Tập đoàn quản lý, phân giao tài nguyên cho các mỏ (công ty than) chịu trách nhiệm quản lý, bảo vệ và tổ chức khai thác than trong ranh giới mỏ được giao. Quyết định số 1122/QĐ-HDQT ngày 16/5/2008 của HĐQT, TKV… phê duyệt Quy hoạch điều chỉnh ranh giới các mỏ thuộc TKV. Trên cơ sở tài nguyên đã phân chia Tập đoàn có công văn đề nghị Bộ Tài nguyên và Môi trường cấp phép lại cho các đơn vị thành viên hạch toán độc lập của Tập đoàn theo bản đồ ranh giới mỏ và dự án đầu tư đã được duyệt.
Giá trị tài sản doanh nghiệp mỏ bao gồm cả giá trị tài nguyên khoáng sản trong lòng đất. Giá trị tự nhiên mỏ khoáng sản được lượng hóa theo phương pháp dòng tiền vào giá trị doanh nghiệp mỏ, nó biểu hiện giá cả mỏ khoáng sản hay giá chuyển nhượng quyền khai thác mỏ khoáng sản. Giá trị này được tính toán khá phổ biến ở các nước, ở Việt Nam đang trong giai đoạn nghiên cứu để áp dụng vào thực tiễn. Tập đoàn là chủ sở hữu vốn và trực tiếp quản lý phần vốn Nhà nước tại các công ty con sẽ bao gồm cả giá trị tài nguyên khoáng sản trong lòng đất.
Các công ty than (đơn vị của Tập đoàn) là những mỏ than khai thác hầm lò hoặc lộ thiên có công suất dưới 5 triệu tấn/năm. Các mỏ này chủ yếu khai thác và tiêu thụ than theo kế hoạch phối hợp kinh doanh của Tập đoàn. Trong khi đó, Tập đoàn phải tổ chức công tác thăm dò tài nguyên, chuẩn bị tài nguyên cho những giai đoạn phát triển tiếp theo, đầu tư những mỏ mới, các cơ sở hạ tầng và bảo vệ môi trường vùng mỏ. Trên thực tế các công ty than hoạt động khoáng sản như những nhà thầu khai thác thông qua Quyết định giao thầu quản lý, bảo vệ ranh giới mỏ và tài nguyên trữ lượng than, tổ chức khai thác than của HĐQT Tập đoàn và Hợp đồng phối hợp kinh doanh với Tập đoàn.
Vấn đề an ninh năng lượng là vấn đề cả thế giới quan tâm. Hàng loạt các nước khu vực Nam Mỹ như Venezuela, Bolivia, Ecuađo, Chile… đang tăng cường vai trò của Nhà nước đối với tài nguyên khoáng sản thậm chí là quốc hữu hóa đối với hoạt động khoáng sản nhất là năng lượng. Trong khi đó Chính phủ giao cho “Tập đoàn Công nghiệp Than – Khoán sản Việt Nam phải có trách nhiệm đảm bảo cung ứng than cho nền kinh tế quốc dân kể cả nhập khẩu than”. Nếu không có giấy cấp phép hoạt động khoáng sản chung, Tập đoàn sẽ không thể chủ động tổ chức thăm dò tài nguyên và triển khai chiến lược phát triển bền vững ngành thanh, đáp ứng nhu cầu than ngày càng tăng của nền kinh tế quốc dân. Vấn đề cấp phép hoạt động khoáng sản đang là vấn đề chưa được thống nhất giữa các cơ quan quản lý Nhà nước. Mục đích quản lý Nhà nước về tài nguyên khoáng sản và hoạt động khoáng sản là đảm bảo hài hòa các lợi ích kinh tế của người lao động, lợi ích của nhà đầu tư (doanh nghiệp) và lợi ích toàn xã hội. Các nhà hoạch định chính sách về tài nguyên khoáng sản phải dựa vào luật và thi hành luật để đạt được mục đích quản lý.
2. Chính sách thuế
Theo Luật thuế thu nhập doanh nghiệp số 14/2008/QH12, ngày 3/6/2008 thuế suất thuế thu nhập doanh nghiệp giảm từ 28% xuống còn 25% và có hiệu lực từ năm 2009. Thuế thu nhập doanh nghiệp giảm phù hợp với mức thuế trong khu vực và khuyến khích sản xuất phát triển. Bộ Tài chính đang đề xuất sửa đổi khung thuế suất quy định tại Pháp lệnh thuế tài nguyên. Theo đó, thuế đánh vào khai thác tài nguyên khoáng sản sẽ tăng mạnh. Thuế đối với khoáng sản tăng từ 1÷5% lên 10÷30%/ khoáng sản phi kim loại tăng từ 1÷5% lên 5÷10%; đá quý tăng từ 3÷8% lên 5÷20%; than từ 1÷3% lên 5÷20%; khí thiên nhiên từ 0÷10% lên 6÷25% (bằng dầu mỏ).
Mức thuế tài nguyên đối với khai thác khoáng sản sẽ tăng lên đáng kể: Mangan và sắt từ 30.000÷75.000 đồng/tấn (hiện là 15.000 đ/tấn); chì 40.000÷66.000 đồng/tấn (hiện là 20.000 đồng/tấn); kẽm 80.000÷195.000 đồng/tấn (hiện là 100.000 đồng/tấn); thiếc 1,3÷3,9 triệu đồng/tấn (hiện là 650.000 đồng/tấn); than 20.000÷80.000 đồng/tấn (hiện 4.000÷6.000 đồng/tấn); theo đó thuế tài nguyên đối với đồng từ 500.000 đồng tấn tinh quặng (Sin Quyền) sẽ tăng 2,5 triệu đồng/tấn.
Nhà nước giảm thuế thu nhập doanh nghiệp và tăng thuế tài nguyên sẽ đảm bảo nguồn thu ổn định cho ngân sách. Mức thuế tài nguyên tăng sẽ làm cho thuế tài nguyên gần với giá trị tô mỏ. Điều này phù hợp với xu thế giá khoáng sản trên thế giới tăng cao trong những năm gần đây. Thuế tài nguyên đối với than tăng chỉ khi giá than trong nước biến động tăng theo giá thị trường khu vực và thế giới. Nhưng thuế tài nguyên sẽ tăng quá cao khi giá khoáng sản và giá than trên thế giới sẽ giảm do khủng hoảng tài chính đang lan rộng. Ngoài các khoản thuế tài nguyên, phí môi trường cũng tăng, Chính phủ ban hành Nghị định số 63/2008/NĐ-CP, ngày 13/5/2008 về phí môi trường đối với khai thác khoáng sản. Theo đó phí môi trường đối với khai thác than là 6.000 đồng/tấn than nguyên khai, than bùn là 2.000 đồng/tấn; khoáng sản kim loại từ 10.000 – 180.000 đồng/tấn quặng nguyên khai, cụ thể như: Quặng chì, kẽm: 180.000 đồng/tấn; quặng sắt, cromit 40.000 đồng/tấn; quặng đồng 350.000 đồng/tấn; quặng bôxit 30.000 đồng/tấn; quặng khoáng sản kim loại khác 10.000 đồng/tấn.
Phí khai thác nộp cho địa phương như đối với khoáng sản ở Lào Cai do UBND tỉnh quy định là 750.000 đồng/tấn tinh quặng đồng và 30.000 đ/T tinh quặng sắt. Để tránh đánh thuế hai lần thì các phí khai thác nộp cho địa phương phải phù hợp và nằm trong khung thuế suất của Pháp lệnh thuế tài nguyên hoặc phí môi trường do Nhà nước quy định.
Với mục đích hạn chế xuất khẩu, bảo vệ tài nguyên Bộ Tài chính đã ban hành sửa đổi biểu thuế xuất khẩu theo Quyết định 35/2008/QĐ-BCT ngày 6/6/2006 với mức thuế xuất khẩu khoáng sản ở mức 20% (trong đó có than Antraxit). Ngoài ra, còn có ý kiến đề nghị áp thêm mức thuế tuyệt đối đối với than xuất khẩu. Nếu điều này xảy ra thì doanh nghiệp khai thác than có lẽ chẳng còn gì để tích lũy và phát triển.
Nhằm kiềm chế lạm phát Chính phủ chưa cho tăng giá than trong nước, đồng thời Nhà nước nâng thuế xuất khẩu lên 20%. Mục đích tăng thuế là tăng nguồn thu cho ngân sách, bảo vệ tài nguyên, hạn chế xuất khẩu, buộc các doanh nghiệp phải tìm cách chế biến sâu góp phần bảo vệ và nâng cao giá trị tài nguyên. Nhưng mặt khác thuế cũng phải ở mức phù hợp đảm bảo, tạo điều kiện để sản xuất có lãi, có tích tụ vốn để tái đầu tư mở rộng sản xuất và nuôi dưỡng nguồn thu.
Để hạn chế xuất khẩu giữ than cho nhu cầu trong nước, ví dụ như ở Indonesia Chính phủ xem xét lựa chọn một trong các giải pháp sau: Đăng ký hạn ngạch xuất khẩu; tăng thuế xuất khẩu; áp dụng cơ chế bắt buộc bán một phần than cho thị trường trong nước thông qua tổ chức quản lý xuất khẩu; thỏa thuận với khách hàng trong nước bán theo giá thị trường. Việc tăng thuế xuất khẩu nhằm hạn chế than xuất khẩu hầu như không có tác dụng bởi nếu có lợi so với bán trong nước các nhà sản xuất Indonesia vẫn bán than ra nước ngoài. Áp dụng cơ chế đăng ký hạn ngạch xuất khẩu chỉ hạn chế cạn kiệt tài nguyên chứ không để bảo vệ nhu cầu than trong nước. Với cơ chế bắt buộc bán cho thị trường trong nước theo tỷ lệ áp dụng cho tất cả các đối tượng sẽ nảy sinh vấn đề trong quản lý than và kho bãi. Nếu giá than trong nước ngang bằng với giá than quốc tế và giữa các nhà sản xuất và các hộ tiêu thụ có hợp đồng dài hạn thì chắc chắn các nhà cung ứng sẽ rất sẵn sàng bán trực tiếp cho các hộ tiêu thụ trong nước. Chính vì vậy, Chính phủ Indonesia cũng đang trong lộ trình giảm chênh lệch giữa giá than trong nước và xuất khẩu, qua đó thúc đẩy các nhà sản xuất sẵn sàng giảm xuất khẩu và cung cấp than cho thị trường trong nước. Kinh nghiệm trên của Indonesiarất hữu ích để Việt Nam tham khảo.
Hiện nay cũng như trong tương lai. Tập đoàn TKV vẫn phải duy trì sản lượng than xuất khẩu hợp lý bởi hai lý do: Thứ nhất, để đầu tư cho công tác thăm dò tài nguyên và phát triển mỏ thực hiện cho được mục tiêu Chiến lược đòi hỏi phải có nguồn vốn đầu tư lớn ngay từ bây giờ. Một mặt, Tập đoàn chấp hành Chỉ thị của Thủ tướng Chính phủ không tăng giá than, duy trì giá bán than cho điện thấp hơn giá thành và chỉ bằng 1/3 giá xuất khẩu để kiềm chế lạm phát. Mặt khác, Tập đoàn phải đảm bảo kinh doanh có lãi, đảm bảo tích tụ vốn để tái đầu tư cho nên dù có cố gắng tiết kiệm chi phí vẫn phải cân đối vào xuất khẩu than. Thứ hai, than xuất khẩu và than nhập là hai chủng loại than khác nhau. Việt Nam thiếu than mỡ cho luyện kim và sẽ thiếu than bitum đốt điện nên phải nhập, còn than antraxit chất lượng tốt giá cao, nhu cầu trong nước chưa cần đến vẫn phải xuất khẩu. Chính vì vậy, tới đây thay vì tăng thuế Chính phủ nên xem xét giảm thuế xuất khẩu than.
3. Kết luận
Vấn đề phát triển bền vững ngành than nhằm đảm bảo an ninh năng lượng quốc gia, đòi hỏi: Phải có sự định hướng chiến lược đúng đắn trong việc quản lý, khai thác, chế biến và sử dụng tài nguyên than tiết kiệm, hiệu quả; phải có sự phối hợp đồng bộ giữa các cơ quan quản lý nhà nước với các doanh nghiệp khai thác, chế biến và sử dụng than. Vấn đề cốt lõi là giá khoáng sản nhiên liệu, trong đó có than phải sớm được thị trường hóa theo đúng chủ trương của Nhà nước. Đồng thời, Tập đoàn đã đề nghị Chính phủ đưa than là mặt hàng độc quyền Nhà nước và giao tài nguyên than cho Tập đoàn TKV quản lý, khai thác, phát triển bền vững phù hợp với luật pháp và mô hình quản lý của Tập đoàn.
_______________
Tài liệu tham khảo:
1. www.luatvietnam.vn
2. Indonesian Coal 4 thEdition (5.2008), pp 28 – 31








