Liên hiệp các hội khoa học và kỹ thuật Việt Nam
Thứ năm, 15/10/2009 18:13 (GMT+7)

Về các chính sách của Nhà nước nhằm phát triển bền vững ngành khai thách khoáng sản ở nước ta

1. Cấp phép hoạt động khoáng sản

Nhà nước tạo điều kiện cho tổ chức, cá nhân tham gia đầu tư thăm dò, khai thác, chế biến khoáng sản (khoản 2, điều 5, Luật khoáng sản). Bộ Tài nguyên và Môi trường là cơ quan cấp giấy phép khảo sát, thăm dò, giấy phép khai thác và chế biến khoáng sản thuộc diện Nhà nước quản lý. Đối tượng được cấp phép là các doanh nghiệp, kể cả doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, thuộc mọi thành phần kinh tế có đăng ký kinh doanh (điều 17, Nghị định số 160/NĐ-CP).

Công ty mẹ - Tập đoàn Công nghiệp Than và Khoáng sản Việt Nam là công ty nhà nước, hoạt động theo Luật Doanh nghiệp. Công ty mẹ có chức năng trực tiếp sản xuất kinh doanh và đầu tư tài chính vào doanh nghiệp khác. Tập đoàn là chủ sở hữu vốn Nhà nước đối với các doanh nghiệp trực thuộc và sở hữu trên 51% vốn đối với các doanh nghiệp mỏ. Công ty con là doanh nghiệp hạch toán độc lập do Tập đoàn nắm giữ 100% vốn điều lệ hoặc giữ cổ phần, vốn góp chi phối hoặc nắm quyền chi phối thông qua quyền khai thác tài nguyên khoáng sản, thị trường, thương hiệu, bí quyết công nghệ… (điều 1, Điều lệ và hoạt động của công ty mẹ - Tập đoàn Công nghiệp Than – Khoáng sản Việt Nam ban hành kèm theo Quyết định số 228/2006/QĐ-TTg, ngày 11/10/2006).

Quyết định số 345/2005/QĐ-TTg, ngày 26/12/2005 của Thử tướng Chính phủ v/v Thành lập Tập đoàn Công nghiệp Than – Khoáng sản Việt Nam tại điều 1 có nêu rõ “Nhà nước giao cho Tập đoàn Công nghiệp Than – Khoán sản Việt Nam quản lý tài nguyên, trữ lượng than, bôxít và các khoáng sản khác để tổ chức khai thác theo quy định pháp luật và điều lệ tổ chức, hoạt động của Tập đoàn”.

Trên cơ sở Quyết định 481/QĐ-QLTN, ngày 06/06/2005 của Bộ Công nghiệp v/v giao quản lý, bảo vệ và tổ chức thăm dò, khai thác than, TKV đã có quyết định giao và điều chỉnh ranh giới cho các đơn vị thành viên. Tập đoàn quản lý, phân giao tài nguyên cho các mỏ (công ty than) chịu trách nhiệm quản lý, bảo vệ và tổ chức khai thác than trong ranh giới mỏ được giao. Quyết định số 1122/QĐ-HDQT ngày 16/5/2008 của HĐQT, TKV… phê duyệt Quy hoạch điều chỉnh ranh giới các mỏ thuộc TKV. Trên cơ sở tài nguyên đã phân chia Tập đoàn có công văn đề nghị Bộ Tài nguyên và Môi trường cấp phép lại cho các đơn vị thành viên hạch toán độc lập của Tập đoàn theo bản đồ ranh giới mỏ và dự án đầu tư đã được duyệt.

Giá trị tài sản doanh nghiệp mỏ bao gồm cả giá trị tài nguyên khoáng sản trong lòng đất. Giá trị tự nhiên mỏ khoáng sản được lượng hóa theo phương pháp dòng tiền vào giá trị doanh nghiệp mỏ, nó biểu hiện giá cả mỏ khoáng sản hay giá chuyển nhượng quyền khai thác mỏ khoáng sản. Giá trị này được tính toán khá phổ biến ở các nước, ở Việt Nam đang trong giai đoạn nghiên cứu để áp dụng vào thực tiễn. Tập đoàn là chủ sở hữu vốn và trực tiếp quản lý phần vốn Nhà nước tại các công ty con sẽ bao gồm cả giá trị tài nguyên khoáng sản trong lòng đất.

Các công ty than (đơn vị của Tập đoàn) là những mỏ than khai thác hầm lò hoặc lộ thiên có công suất dưới 5 triệu tấn/năm. Các mỏ này chủ yếu khai thác và tiêu thụ than theo kế hoạch phối hợp kinh doanh của Tập đoàn. Trong khi đó, Tập đoàn phải tổ chức công tác thăm dò tài nguyên, chuẩn bị tài nguyên cho những giai đoạn phát triển tiếp theo, đầu tư những mỏ mới, các cơ sở hạ tầng và bảo vệ môi trường vùng mỏ. Trên thực tế các công ty than hoạt động khoáng sản như những nhà thầu khai thác thông qua Quyết định giao thầu quản lý, bảo vệ ranh giới mỏ và tài nguyên trữ lượng than, tổ chức khai thác than của HĐQT Tập đoàn và Hợp đồng phối hợp kinh doanh với Tập đoàn.

Vấn đề an ninh năng lượng là vấn đề cả thế giới quan tâm. Hàng loạt các nước khu vực Nam Mỹ như Venezuela, Bolivia, Ecuađo, Chile… đang tăng cường vai trò của Nhà nước đối với tài nguyên khoáng sản thậm chí là quốc hữu hóa đối với hoạt động khoáng sản nhất là năng lượng. Trong khi đó Chính phủ giao cho “Tập đoàn Công nghiệp Than – Khoán sản Việt Nam phải có trách nhiệm đảm bảo cung ứng than cho nền kinh tế quốc dân kể cả nhập khẩu than”. Nếu không có giấy cấp phép hoạt động khoáng sản chung, Tập đoàn sẽ không thể chủ động tổ chức thăm dò tài nguyên và triển khai chiến lược phát triển bền vững ngành thanh, đáp ứng nhu cầu than ngày càng tăng của nền kinh tế quốc dân. Vấn đề cấp phép hoạt động khoáng sản đang là vấn đề chưa được thống nhất giữa các cơ quan quản lý Nhà nước. Mục đích quản lý Nhà nước về tài nguyên khoáng sản và hoạt động khoáng sản là đảm bảo hài hòa các lợi ích kinh tế của người lao động, lợi ích của nhà đầu tư (doanh nghiệp) và lợi ích toàn xã hội. Các nhà hoạch định chính sách về tài nguyên khoáng sản phải dựa vào luật và thi hành luật để đạt được mục đích quản lý.

2. Chính sách thuế

Theo Luật thuế thu nhập doanh nghiệp số 14/2008/QH12, ngày 3/6/2008 thuế suất thuế thu nhập doanh nghiệp giảm từ 28% xuống còn 25% và có hiệu lực từ năm 2009. Thuế thu nhập doanh nghiệp giảm phù hợp với mức thuế trong khu vực và khuyến khích sản xuất phát triển. Bộ Tài chính đang đề xuất sửa đổi khung thuế suất quy định tại Pháp lệnh thuế tài nguyên. Theo đó, thuế đánh vào khai thác tài nguyên khoáng sản sẽ tăng mạnh. Thuế đối với khoáng sản tăng từ 1÷5% lên 10÷30%/ khoáng sản phi kim loại tăng từ 1÷5% lên 5÷10%; đá quý tăng từ 3÷8% lên 5÷20%; than từ 1÷3% lên 5÷20%; khí thiên nhiên từ 0÷10% lên 6÷25% (bằng dầu mỏ).

Mức thuế tài nguyên đối với khai thác khoáng sản sẽ tăng lên đáng kể: Mangan và sắt từ 30.000÷75.000 đồng/tấn (hiện là 15.000 đ/tấn); chì 40.000÷66.000 đồng/tấn (hiện là 20.000 đồng/tấn); kẽm 80.000÷195.000 đồng/tấn (hiện là 100.000 đồng/tấn); thiếc 1,3÷3,9 triệu đồng/tấn (hiện là 650.000 đồng/tấn); than 20.000÷80.000 đồng/tấn (hiện 4.000÷6.000 đồng/tấn); theo đó thuế tài nguyên đối với đồng từ 500.000 đồng tấn tinh quặng (Sin Quyền) sẽ tăng 2,5 triệu đồng/tấn.

Nhà nước giảm thuế thu nhập doanh nghiệp và tăng thuế tài nguyên sẽ đảm bảo nguồn thu ổn định cho ngân sách. Mức thuế tài nguyên tăng sẽ làm cho thuế tài nguyên gần với giá trị tô mỏ. Điều này phù hợp với xu thế giá khoáng sản trên thế giới tăng cao trong những năm gần đây. Thuế tài nguyên đối với than tăng chỉ khi giá than trong nước biến động tăng theo giá thị trường khu vực và thế giới. Nhưng thuế tài nguyên sẽ tăng quá cao khi giá khoáng sản và giá than trên thế giới sẽ giảm do khủng hoảng tài chính đang lan rộng. Ngoài các khoản thuế tài nguyên, phí môi trường cũng tăng, Chính phủ ban hành Nghị định số 63/2008/NĐ-CP, ngày 13/5/2008 về phí môi trường đối với khai thác khoáng sản. Theo đó phí môi trường đối với khai thác than là 6.000 đồng/tấn than nguyên khai, than bùn là 2.000 đồng/tấn; khoáng sản kim loại từ 10.000 – 180.000 đồng/tấn quặng nguyên khai, cụ thể như: Quặng chì, kẽm: 180.000 đồng/tấn; quặng sắt, cromit 40.000 đồng/tấn; quặng đồng 350.000 đồng/tấn; quặng bôxit 30.000 đồng/tấn; quặng khoáng sản kim loại khác 10.000 đồng/tấn.

Phí khai thác nộp cho địa phương như đối với khoáng sản ở Lào Cai do UBND tỉnh quy định là 750.000 đồng/tấn tinh quặng đồng và 30.000 đ/T tinh quặng sắt. Để tránh đánh thuế hai lần thì các phí khai thác nộp cho địa phương phải phù hợp và nằm trong khung thuế suất của Pháp lệnh thuế tài nguyên hoặc phí môi trường do Nhà nước quy định.

Với mục đích hạn chế xuất khẩu, bảo vệ tài nguyên Bộ Tài chính đã ban hành sửa đổi biểu thuế xuất khẩu theo Quyết định 35/2008/QĐ-BCT ngày 6/6/2006 với mức thuế xuất khẩu khoáng sản ở mức 20% (trong đó có than Antraxit). Ngoài ra, còn có ý kiến đề nghị áp thêm mức thuế tuyệt đối đối với than xuất khẩu. Nếu điều này xảy ra thì doanh nghiệp khai thác than có lẽ chẳng còn gì để tích lũy và phát triển.

Nhằm kiềm chế lạm phát Chính phủ chưa cho tăng giá than trong nước, đồng thời Nhà nước nâng thuế xuất khẩu lên 20%. Mục đích tăng thuế là tăng nguồn thu cho ngân sách, bảo vệ tài nguyên, hạn chế xuất khẩu, buộc các doanh nghiệp phải tìm cách chế biến sâu góp phần bảo vệ và nâng cao giá trị tài nguyên. Nhưng mặt khác thuế cũng phải ở mức phù hợp đảm bảo, tạo điều kiện để sản xuất có lãi, có tích tụ vốn để tái đầu tư mở rộng sản xuất và nuôi dưỡng nguồn thu.

Để hạn chế xuất khẩu giữ than cho nhu cầu trong nước, ví dụ như ở Indonesia Chính phủ xem xét lựa chọn một trong các giải pháp sau: Đăng ký hạn ngạch xuất khẩu; tăng thuế xuất khẩu; áp dụng cơ chế bắt buộc bán một phần than cho thị trường trong nước thông qua tổ chức quản lý xuất khẩu; thỏa thuận với khách hàng trong nước bán theo giá thị trường. Việc tăng thuế xuất khẩu nhằm hạn chế than xuất khẩu hầu như không có tác dụng bởi nếu có lợi so với bán trong nước các nhà sản xuất Indonesia vẫn bán than ra nước ngoài. Áp dụng cơ chế đăng ký hạn ngạch xuất khẩu chỉ hạn chế cạn kiệt tài nguyên chứ không để bảo vệ nhu cầu than trong nước. Với cơ chế bắt buộc bán cho thị trường trong nước theo tỷ lệ áp dụng cho tất cả các đối tượng sẽ nảy sinh vấn đề trong quản lý than và kho bãi. Nếu giá than trong nước ngang bằng với giá than quốc tế và giữa các nhà sản xuất và các hộ tiêu thụ có hợp đồng dài hạn thì chắc chắn các nhà cung ứng sẽ rất sẵn sàng bán trực tiếp cho các hộ tiêu thụ trong nước. Chính vì vậy, Chính phủ Indonesia cũng đang trong lộ trình giảm chênh lệch giữa giá than trong nước và xuất khẩu, qua đó thúc đẩy các nhà sản xuất sẵn sàng giảm xuất khẩu và cung cấp than cho thị trường trong nước. Kinh nghiệm trên của Indonesiarất hữu ích để Việt Nam tham khảo.

Hiện nay cũng như trong tương lai. Tập đoàn TKV vẫn phải duy trì sản lượng than xuất khẩu hợp lý bởi hai lý do: Thứ nhất, để đầu tư cho công tác thăm dò tài nguyên và phát triển mỏ thực hiện cho được mục tiêu Chiến lược đòi hỏi phải có nguồn vốn đầu tư lớn ngay từ bây giờ. Một mặt, Tập đoàn chấp hành Chỉ thị của Thủ tướng Chính phủ không tăng giá than, duy trì giá bán than cho điện thấp hơn giá thành và chỉ bằng 1/3 giá xuất khẩu để kiềm chế lạm phát. Mặt khác, Tập đoàn phải đảm bảo kinh doanh có lãi, đảm bảo tích tụ vốn để tái đầu tư cho nên dù có cố gắng tiết kiệm chi phí vẫn phải cân đối vào xuất khẩu than. Thứ hai, than xuất khẩu và than nhập là hai chủng loại than khác nhau. Việt Nam thiếu than mỡ cho luyện kim và sẽ thiếu than bitum đốt điện nên phải nhập, còn than antraxit chất lượng tốt giá cao, nhu cầu trong nước chưa cần đến vẫn phải xuất khẩu. Chính vì vậy, tới đây thay vì tăng thuế Chính phủ nên xem xét giảm thuế xuất khẩu than.

3. Kết luận

Vấn đề phát triển bền vững ngành than nhằm đảm bảo an ninh năng lượng quốc gia, đòi hỏi: Phải có sự định hướng chiến lược đúng đắn trong việc quản lý, khai thác, chế biến và sử dụng tài nguyên than tiết kiệm, hiệu quả; phải có sự phối hợp đồng bộ giữa các cơ quan quản lý nhà nước với các doanh nghiệp khai thác, chế biến và sử dụng than. Vấn đề cốt lõi là giá khoáng sản nhiên liệu, trong đó có than phải sớm được thị trường hóa theo đúng chủ trương của Nhà nước. Đồng thời, Tập đoàn đã đề nghị Chính phủ đưa than là mặt hàng độc quyền Nhà nước và giao tài nguyên than cho Tập đoàn TKV quản lý, khai thác, phát triển bền vững phù hợp với luật pháp và mô hình quản lý của Tập đoàn.

_______________

Tài liệu tham khảo:

1. www.luatvietnam.vn

2. Indonesian Coal 4 thEdition (5.2008), pp 28 – 31

Xem Thêm

Tạo thuận lợi hơn cho công tác tổ chức hội nghị, hội thảo quốc tế
Dự thảo Quyết định điều chỉnh, sửa đổi Quyết định 06/2020/QĐ-TTg ngày 21/02/2020 của Thủ tướng Chính phủ về tổ chức, quản lý hội nghị, hội thảo quốc tế tại Việt Nam nhằm giải quyết những vướng mắc trong quy định hiện hành, tăng cường phân cấp và đơn giản hóa thủ tục hành chính.
Để trí thức khoa học tham gia sâu hơn vào công tác Mặt trận
Hội thảo khoa học tại Hà Nội ngày 6/11/2025 đánh giá thực trạng sự tham gia, phối hợp của Liên hiệp Hội Việt Nam trong các hoạt động chung của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam giai đoạn 2015-2025. Các chuyên gia thẳng thắn chỉ ra những thành tựu, hạn chế và đề xuất giải pháp cho giai đoạn tới.
Còn nhiều rào cản trong thực thi bộ tiêu chuẩn ESG
Hầu hết các doanh nghiệp vừa và nhỏ (DNVVN) nói chung và DNVVN nói riêng trên địa bàn Thành phố Hà Nội gặp nhiều rào cản và thách thức trong thực thi tiêu chuẩn môi trường, xã hội và quản trị (ESG).
Đắk Lắk: Góp ý kiến văn kiện Đại hội lần thứ XIII của Đảng
Ngày 13/6, Liên hiệp hội tỉnh đã tổ chức góp ý kiến đối với dự thảo kế hoạch tổ chức hội nghị lấy ý kiến văn kiện Đại hội lần thứ XIII của Đảng và dự thảo Báo cáo chính trị trình Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh lần thứ XVII, nhiệm kỳ 2025 – 2030.
Hà Giang: Góp ý dự thảo sửa đổi Luật Chất lượng sản phẩm
Ngày 13/6, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật (Liên hiệp hội) tỉnh đã tổ chức hội thảo góp ý dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Chất lượng sản phẩm, hàng hoá (CLSPHH). Tham dự hội thảo có lãnh đạo đại diện các Sở, ban ngành của tỉnh, các hội thành viên Liên hiệp hộivà các chuyên gia TVPB.
Đắk Lắk: Hội nghị phản biện Dự thảo Nghị quyết về bảo đảm thực hiện dân chủ cơ sở
Sáng ngày 27/5/2025, tại trụ sở Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh Đắk Lắk (Liên hiệp hội) đã diễn ra Hội nghị phản biện và góp ý đối với Dự thảo Nghị quyết của Hội đồng nhân dân (HĐND) tỉnh Đắk Lắk về việc quyết định các biện pháp bảo đảm thực hiện dân chủ ở cơ sở trên địa bàn tỉnh.
Phú Thọ: Lấy ý kiến về Dự thảo Nghị quyết sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 2013
Sáng ngày 20/5/2025, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh Phú Thọ (Liên hiệp hội) tổ chức hội thảo lấy ý kiến của đội ngũ trí thức, chuyên gia, nhà khoa học về dự thảo Nghị quyết sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013.

Tin mới

Nhìn lại năm 2025: Những con số biết nói thể hiện sự đóng góp đối với xã hội từ các tổ chức KH&CN trực thuộc VUSTA
Năm 2025, các tổ chức KH&CN trực thuộc Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam đã để lại nhiều dấu ấn đậm nét, là minh chứng sinh động cho vai trò tiên phong của KHCN trong phụng sự xã hội. Hàng trăm đề tài, dự án KH&CN được triển khai hiệu quả đã lan tỏa giá trị thiết thực trong chăm sóc sức khỏe, xóa đói giảm nghèo, đào tạo nguồn nhân lực, bảo vệ môi trường và phản biện chính sách.
Thanh Hoá: Phản biện đề án tiêu úng kênh Bắc Sông Chu, Nam sông Mã
Sáng ngày 18/12, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Thanh Hóa (Liên hiệp hội) tổ chức Hội thảo khoa học phản biện “Đề án nghiên cứu các giải pháp tiêu úng cho khu vực các huyện Yên Định, Thiệu Hóa, Thọ Xuân, Ngọc Lặc sau khi hệ thống kênh Bắc Sông Chu - Nam sông Mã đưa vào khai thác, sử dụng” do Sở Nông nghiệp và Môi trường làm cơ quan soạn thảo.
Quảng Trị: Ông Nguyễn Xuân Tuyến làm Chủ tịch Hội Luật gia
Sáng ngày 17/12, Hội Luật gia tỉnh Quảng Trị tổ chức Đại hội đại biểu Hội Luật gia tỉnh lần thứ I, nhiệm kỳ 2025 - 2030. Dự đại hội có ông Nguyễn Chiến Thắng, Phó Bí thư Tỉnh ủy, Chủ tịch Ủy ban MTTQVN tỉnh Quảng Trị; ông Trần Công Phàn, Phó Bí thư Đảng ủy, Phó Chủ tịch Thường trực Hội Luật gia Việt Nam.
Đoàn Thanh niên VUSTA trao yêu thương, lan tỏa tri thức tới điểm trường Ấm Hiêu, tỉnh Thanh Hóa
Ngày 18/12, Ban Chấp hành Đoàn Thanh niên Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (VUSTA) tham gia Lễ khánh thành Cụm công trình thư viện và nhà vệ sinh tại điểm trường Ấm Hiêu, Trường tiểu học Cổ Lũng, tỉnh Thanh Hóa, đồng thời trao tặng sách, truyện cho các em học sinh tại Điểm trường.
Hội nghị Hội đồng Trung ương Liên hiệp Hội Việt Nam lần thứ 11, khóa VIII
Sáng ngày 19/12, Đoàn Chủ tịch Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (Liên hiệp Hội Việt Nam) tổ chức Hội nghị Hội đồng Trung ương Liên hiệp Hội Việt Nam lần thứ 11, khóa VIII (2020-2025). Hội nghị được tổ chức nhằm đánh giá kết quả hoạt động năm 2025, xác định phương hướng, nhiệm vụ công tác năm 2026; đồng thời xem xét một số nội dung quan trọng thuộc thẩm quyền của Hội đồng Trung ương.
Phó Chủ tịch VUSTA Phạm Ngọc Linh dẫn đoàn Việt Nam tham dự Diễn đàn Kỹ sư Lan Thương - Mekong 2025
Ngày 7/12, tại Tp. Côn Minh, tỉnh Vân Nam, Trung Quốc, Diễn đàn Kỹ sư Lan Thương - Mekong 2025 đã được tổ chức với chủ đề “Kỹ thuật xanh và Phát triển bền vững”. Đoàn Việt Nam do Phó Chủ tịch Liên hiệp Hội Việt Nam Phạm Ngọc Linh - làm trưởng đoàn đã tham dự Diễn đàn. Tham gia Đoàn công tác có đại diện của Hội Thủy lợi Việt Nam, Ban Khoa học và Hợp tác quốc tế, Văn phòng Liên hiệp Hội Việt Nam.
Thúc đẩy ứng dụng AI trong quản lý năng lượng - Giải pháp then chốt giảm phát thải nhà kính
Ngày 17/12, tại phường Bà Rịa, thành phố Hồ Chí Minh (TP.HCM), Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (VUSTA) phối hợp cùng Sở Công Thương TP.HCM, Trung tâm Chứng nhận Chất lượng và Phát triển Doanh nghiệp và Công ty Cổ phần Tập đoàn Vira tổ chức Hội thảo khoa học “Giải pháp thúc đẩy ứng dụng AI trong quản lý, sử dụng năng lượng hiệu quả nhằm giảm phát thải khí nhà kính”.