Văn hóa với kinh tế - nhìn từ góc độ văn hóa
(Qua các nghị quyết của Đảng thời kỳ đổi mới)
Nhiều người quan niệm rằng, văn hóa là hệ quả của kinh tế, kinh tế có phát triển mới là tiền đề cho văn hóa phát triển, đời sống vật chất có dồi dào thì mới có điều kiện mở mang đời sống tinh thần. Cũng có không ít người coi văn hóa hoàn toàn không tùy thuộc vào kinh tế, tức văn hóa là yếu tố đứng ngoài kinh tế.
Văn hóa chính là những giá trị tinh thần của đời sống con người, văn hóa tác động đến mọi mặt của đời sống chứ không phải chỉ có kinh tế. Theo nghĩa này, mỗi quốc gia đều phải coi trọng văn hóa như là một bộ phận của các hoạt động kinh tế - xã hội, phải có đường lối, chính sách phát triển văn hóa.
Ở Việt Nam, từ trước Cách mạng Tháng Tám 1945, Hồ Chí Minh đã viết: "vì lẽ sinh tồn cũng như mục đích của cuộc sống, loài người mới sáng tạo và phát minh ra ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp luật, khoa học, tôn giáo, văn học, nghệ thuật, những công cụ cho sinh hoạt hàng ngày về mặc, ăn, ở và các phương thức sử dụng. Toàn bộ những sáng tạo và phát minh đó tức là văn hóa. Văn hóa là sự tổng hợp của mọi phương thức sinh hoạt cùng với biểu hiện của nó mà loài người đã sản sinh ra nhằm thích ứng những nhu cầu đời sống và đòi hỏi của sự sinh tồn" 1. Trong quan niệm trên, Hồ Chí Minh đã nói đến văn hóa theo nghĩa rộng nhất của khái niệm này, bao gồm cả văn hóa vật chất và văn hóa tinh thần. Người khẳng định lý do, tính tất yếu của sự tồn tại và phát triển của văn hóa. Người nhấn mạnh đặc trưng quan trọng nhất của văn hóa là "sáng tạo và phát minh". Sự "sáng tạo và phát minh" này chỉ có ở con người, do chính con người và để phục vụ con người. Trên cơ sở những chỉ dẫn của Hồ Chí Minh, từ trước Cách mạng tháng Tám (1945) đến nay, Đảng Cộng sản Việt Nam đã trải qua một quá trình tìm tòi, nghiên cứu công phu để từng bước nhận thức sâu sắc hơn, toàn diện hơn về văn hóa. Sự phát triển nền văn hóa ở Việt Nam từ Cách mạng Tháng Tám (1945) đến nay đã trải qua ba thời kỳ gắn liền với những nấc thang xã hội hóa lao động và sự phát triển tự do của cá nhân trong sự phát triển chung của cả dân tộc.
Thời kỳ đầulà nền văn hóa ra đời từ cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân. Đây là nền văn hóa xã hội lao động và phát triển tự do của cá nhân trong cuộc cách mạng phản đế phản phong theo ba định chuẩn: dân tộc hóa, khoa học hóa, đại chúng hóa. Nền văn hóa trong giai đoạn này đã đạt được kết quả là lao động và người lao động được nâng lên một trình độ mới, mỗi cá nhân và cả dân tộc thoát khỏi ách áp bức, bóc lột, bước vào một trình độ tự do mới.
Thời kỳ thứ haicũng tức là nấc thang thứ hai của sự phát triển văn hóa, thực hiện trong quá trình xã hội hóa lao động và giành tự do cá nhân trong khuôn khổ tự do chung của dân tộc trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội (CNXH) ở miền Bắc và đấu tranh thống nhất đất nước. Sự phát triển văn hóa trong giai đoạn này theo nội dung và tính dân tộcđã đạt được những thành tựu mới so với thời kỳ cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân. Lao động đã được xã hội hóa bằng sự nghiệp xây dựng CNXH và tự do của mỗi người trong khuôn khổ tự do của dân tộc trong cuộc chiến tranh gian khổ giải phóng miền Nam , thống nhất đất nước.
Thời kỳ thứ bađược bắt đầu từ năm 1986 khi Đảng ta đề xướng và lãnh đạo công cuộc đổi mới. Sự phát triển văn hóa Việt Nam bước sang nấc thang xã hội hóa lao động và phát triển tự do của con người trong tự do chung của dân tộc theo cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Từ đó đến nay, văn hóa Việt Nam phát triển theo mô thức một nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc. theo định hướng này, Hội nghị Trung ương 4 khóa VII lần đầu tiên xác định vấn đề văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, thể hiện tầm cao và chiều sâu về trình độ phát triển của một dân tộc; văn hóa là sự kết tinh những giá trị tốt đẹp trong quan hệ giữa con người với con người, con người với xã hội và con người với tự nhiên. Nghị quyết Trung ương 5 khóa VIII (1998) Về xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộclà một bước phát triển về chất trong nhận thức của Đảng về văn hóa. Lần đầu tiên Nghị quyết khẳng định rằng "văn hóa Việt Nam là tổng thể những giá trị vật chất và tinh thần do cộng đồng các dân tộc Việt Nam sáng tạo ra trong quá trình dựng nước và giữ nước". Như vậy là Đảng đã nhìn văn hóa theo nghĩa rộng lớn và bao quát. Nghị quyết không chỉ nhìn nhận văn hóa ở dạng thức, sản phẩm, công trình cụ thể mà nhấn mạnh một yêu cầu cực kỳ quan trọng là làm cho văn hóa thấm sâu vào toàn bộ đời sống và hoạt động xã hội, vào từng con người, từng địa bàn dân cư, vào mọi lĩnh vực sinh hoạt và quan hệ giữa con người với con người, làm cho trình độ dân trí được nâng cao, khoa học kỹ thuật phát triển, tạo ra đời sống tinh thần cao đẹp trên đất nước Việt Nam.
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (1991) đã khẳng định nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc là một trong sáu đặc trưng tạo nên CNHX, nghĩa là văn hóa là một thành tố hữu cơ, không thể thiếu của CNXH.
Hội nghị Trung ương 10 khóa IX (2004) đã nhận thức sâu thêm một bước về văn hóa khi kết luận: Bản thân sự gắn kết giữa nhiệm vụ phát triển kinh tế là trọng tâm, xây dựng, chỉnh đốn Đảng là then chốt với không ngừng nâng cao văn hóa - nền tảng tinh thần của xã hội, tạo nên sự phát triển đồng bộ của ba lĩnh vực trên chính là điều kiện quyết định bảo đảm cho sự phát triển toàn diện và bền vững của đất nước.
Thực tế cho thấy, muốn phát triển nhanh và bền vững thì mục tiêu phát triển con người, phát triển văn hóa không chỉ là đối tượng riêng biệt mà còn phải lan tỏa, thẩm sâu vào kinh tế và chính trị.
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011), trong phần mục tiêu tổng quát khi kết thúc thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta, khẳng định: "…. xây dựng được về cơ bản nền kinh tế của chủ nghĩa xã hội với kiến trúc thượng tầng về chính trị, tư tưởng, văn hóa phù hợp, tạo cơ sở để nước ta trở thành một nước xã hội chủ nghĩa ngày càng phồn vinh, hạnh phúc" 2.
Trong phần 8 phương hướng cơ bản để thực hiện thành công mục tiêu đến giữa thế kỷ XXI xây dựng nước ta thành một nước công nghiệp hiện đại, theo định hướng XHCN trong Cương lĩnh, đã xếp phương hướng về xây dựng văn hóa đứng thứ ba sau phát triển kinh tế. Như vậy là đã nâng văn hóa lên một bước tương thích theo vị trí vốn có của nó.
Mục Những định hướng lớn về phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh, đối ngoạitrong Cương lĩnh thì xếp văn hóa đứng thứ hai sau kinh tế rồi mới đến xã hội. Như vậy là văn hóa đứng trước xã hội chứ không phải như quan điểm trước đây thường xếp văn hóa đứng sau xã hội (chính trị, kinh tế, xã hội,văn hóa)
Phần viết về văn hóa, Cương lĩnh khẳng định: " Xây dựng nền văn hóa Việt Namtiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, phát triển toàn diện, thống nhất trong đa dạng, thấm nhuần sâu sắc tinh thần nhân văn, dân chủ, tiến bộ; làm cho văn hóa gắn kết chặt chẽ và thấm sâu vào toàn bộ đời sống xã hội, trở thành nền tảng tinh thần vững chắc, sức mạnh nội sinh quan trọng của phát triển" 3.
Như vậy là, từ thực tiễn lãnh đạo văn hóa của Đảng Cộng sản Việt Nam từ khi thực hiện công cuộc đổi mới (1986) đến nay đã thể hiện rõ 5 quan điểm chỉ đạo xây dựng và phát triển văn hóa Việt Nam trong thời đại mới.
Một là, Đảng khẳng định vị trí, vai trò của văn hóa. Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu, vừa là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội. Đây là một bước phát triển trong tư duy của Đảng về văn hóa. Chăm lo phát triển văn hóa là chăm lo củng cố nền tảng tinh thần của xã hội. Xây dựng và phát triển kinh tế phải nhằm mục tiêu văn hóa, vì xã hội công bằng, dân chủ, văn minh và sự phát triển toàn diện của con người. Văn hóa là kết quả của kinh tế đồng thời cũng là động lực, là nguồn lực nội sinh quan trọng để phát triển kinh tế - xã hội.
Hai là, khẳng định nền văn hóa mà Đảng và nhân dân xây dựng là nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Sự kết hợp nhuần nhuyễn, thẩm thấu giữa hai nhân tố "tiên tiến" và "đậm đà bản sắc dân tộc" tạo nên nền văn hóa Việt Nam đương đại. Tiên tiến là gắn kết giữa yêu nước và luôn theo định hướng tiến lên mang đậm nội dung cốt lõi là lý tưởng độc lập dân tộc và CNXH theo chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Tiên tiến bao gồm cả bình diện nội dung tư tưởng, cả bình diện phương tiện chuyển tải nội dung và các hình thức biểu hiện. Bản sắc dân tộc bao gồm những giá trị đã kết tinh bền vững, những tinh hoa của cộng đồng 54 dân tộc Việt Nam .
Ba là, nền văn hóa Việt Nam mà chúng ta xây dựng là nền văn hóa thống nhất trong đa dạng.Đó là văn hóa thống nhất trong đa dạng. Đó là nền văn hòa hòa quyện chung của quốc gia dân tộc, trong đó mỗi dân tộc đều có những sắc thái riêng, những giá trị văn hóa độc đáo và luôn bổ sung cho nhau, làm phong phú lẫn nhau taọ nên vườn hoa đầy hương sắc vừa thống nhất trong đa dạng, vừa đa dạng trong thống nhất.
Thứ tư, xây dựng và phát triển văn hóa luôn là sự nghiệp của toàn dân do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo. Trong những lực lượng xây dựng và phát triển văn hóa của đất nước thì đội ngũ trí thức có vai trò quan trọng. Đương nhiên, tất cả mọi người dân Việt Nam đều tham gia vào sự nghiệp xây dựng, phát triển văn hóa, là chủ thể của quá trình văn hóa, từ sáng tạo, truyến bá, giữ gìn, bảo vệ đến sản xuất, quản lý văn hóa, thụ hưởng văn hóa.
Thứ năm, xây dựng và phát triển văn hóa là sự nghiệp cách mạng lâu dài, luôn gắn kết và tiến cùng với từng bước phát triển của đất nước, của dân tộc. Nhận thức sâu sắc về tính đặc thù của quá trình xây dựng văn hóa, Đảng luôn cho rằng, đây là công việc đầy khó khăn, đòi hỏi phải có nhiều công sức và thời gian, đòi hỏi phải có ý chí cách mạng, sự kiên trì, thận trọng trong từng bước đi. Cuộc đấu tranh này đòi hỏi toàn Đảng, toàn dân phải kết hợp nhuần nhuyễn giữa "xây" và "chống", xây cái mới, cái tiến bộ và chống mọi hủ tục, thói hư tật xấu, chống mọi mưa toan lợi dụng văn hóa để thực hiện âm mưu "diễn biến hòa bình" gây mất ổn định xã hội, ảnh hưởng đến công cuộc xây dựng và phát triển đất nước.
Nói một cách tổng quát, từ khi thực hiện công cuộc đổi mới hiện nay, nhận thức về văn hóa, xây dựng và phát triển văn hóa của Đảng đã nâng lên một tầm cao mới trên nhiều bình diện, đặc biệt là trên bình diện xây dựng văn hóa trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường. Nền kinh tế thị trường định hướng XHCN mà chúng ta xây dựng là sự vận dụng thành quả lớn (kinh tế thị trường) mà nhân loại đã sáng tạo và hoàn thiện kết hợp với việc phát huy ngày càng tốt hơn, đầy đủ hơn mục tiêu và tính ưu việt của CNXH. Khẳng định điều này tức là khẳng định nhận thức đúng của Đảng về tác dụng tích cực của kinh tế thị trường và vai trò quan trọng của văn hóa trong thực hiện định hướng XHCN đối với nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam . Vai trò "soi đường" của văn hóa đối với sự phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN thể hiện ở tầm hoạch định chiến lược trong phát triển kinh tế - xã hội, dựa trên nguồn lực văn hóa mà sâu xa và quan trọng nhất là nguồn lực con người, là chất lượng nguồn nhân lực, bao gồm cả thể lực, trí tuệ, đạo đức. Những điều này cần nghiên cứu sâu hơn cả về lý luận và thực tiễn.
Từ góc độ văn hóa để xem xét mối quan hệ văn hóa với kinh tế, ta thấy nổi bật lên thuộc tính kinh tế của văn hóa, kinh tế và văn hóa hòa quyền với nhau, lồng vào nhau, tỏng đó văn hóa đóng vai trò nền tảng tinh thần, tức là kinh tế phải bắt rễ trong văn hóa để phát triển. UNESCO khẳng định rằng: "Nhận thức về vị trí, vai trò của văn hóa trong phát triển, chúng ta cần vượt lên trên cách tiếp cận kinh tế học thuần túy và tìm ra hàng trăm phương thức có thể được để cho tính công nghiệp và sáng tạo có thể gắn bó móc nối với nhau và để kinh tế có thể bắt rễ trong văn hóa" 4.
Việc xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng XHCN muốn đi đúng hướng phát triển bền vững thì phải có sự phối hợp đồng bộ của sức mạnh văn hóa. Khi các mục tiêu tăng trưởng kinh tế được đặt ra mà không gắn bó mật thiết với môi trường văn hóa thì kết quả sẽ rất mất cân đối cả về kinh tế lẫn văn hóa. Giải pháp văn hóa của sự phát triển sẽ phát huy được tiềm năng sáng tạo của con người, tiềm năng ẩn chứa của cả dân tộc. Đây là vấn đề có ý nghĩa song trùng cả về lý luận và thực tiễn khi nghiên cứu, phát triển văn hóa.
Chú thích:
1. Hồ Chí Minh Toàn tập,CTQ, H, 2000, T.3, tr.431
2,3. Đảng Cộng sản Việt Nam : Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, CTQG, H, 2011, tr.71, 75-76
4. Ủy ban quốc gia về thập kỷ quốc tế phát triển văn hóa: Thập kỷ thế giới phát triển văn hóa, NXB Văn hóa thông tin, H, 1992, tr.23 .








