Vấn đề phát huy trí tuệ Việt Nam trong sự nghiệp xây dựng đất nước hiện nay
Theo giáo lý Phật giáo, trí tuệ là sự hiểu biết căn bản và chủ yếu mang tính minh bạch và đúng đắn gọi là "chính kiến". Phật giáo Bắc tông thì cho rằng, trí tuệ là khả năng nhận thức căn bản, gắn với dòng tiếp nối liên tục của tâm thức, bản chất của nó là tiếng không, trong sáng và rạng ngời, giúp "nhìn thấy" hay cảm nhận được bản thể đích thực và tối hậu của mọi hiện tượng.
Dù có những cách diễn đạt khác nhau, nhưng trên phương diện tổng quát, trí tuệ có nghĩa là sự hiểu biết minh bạch và tường tận các sự vật, hiện tượng của tự nhiên, xã hội và tư duy.
Sự phát triển của mỗi đất nước phụ thuộc chủ yếu vào trí tuệ và bản lĩnh của những cá nhân xuất sắc ở đất nước đó. Quá trình lịch sử nước ta khẳng định vai trò của trí tuệ đối với quá trình phát triển của đất nước. Từ thực tiễn phát triển của lịch sử nước nhà, Thân Nhân Trung trong bài ký đề trên bia Tiến sĩ khoa Nhâm Tuất, niên hiệu Đại Bảo lần 3 (1442) đã tổng kết có tính khái quát: " Hiền tài là nguyên khí quốc gia, nguyên khí thịnh thì thế nước mạnh mà càng lên cao; nguyên khí suy thì nước yếu mà càng xuống thấp. Bởi vậy, các bậc vua tài giỏi đời xưa, chẳng có đời nào lại không chăm lo nuôi dưỡng và đào tạo hiền tài bồi đắp thêm nguyên khí".
Trong quá trình lãnh đạo cách mạng nước ta, Đảng ta luôn luôn có chính sách phù hợp để phát huy trí tuệ Việt Nam trong sự nghiệp lớn cứu nước.
Thời kỳ cách mạng còn trong "trứng nước", Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh với tư duy, tầm nhìn sáng suốt và uy tín to lớn đã cảm hóa, thuyết phục được nhiều nhân sĩ, trí thức tiêu biểu tham gia khối đại đoàn kết dân tộc, bất chấp hiểm nguy đi theo cách mạng, hy sinh cho nghiệp lớn.
Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám và hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp (1945 - 1954), chống Mỹ cứu nước (1954 - 1975) là thắng lợi của trí tuệ Việt Nam .
Trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội, nhất là qua thực hiện đường lối đổi mới do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo, trí tuệ Việt Nam không ngừng phát huy. Cụ thể là sự phát triển và trưởng thành của đội ngũ trí thức cả về số lượng lẫn chát lượng. Theo các nguồn tài liệu chính thống, đến giữa năm 2007, Việt Nam có khoảng 2,6 triệu người có trình độ đại học trở lên, chiếm 4,5% lực lượng lao động, trong đó, có trên 18.00 thạc sĩ, 16.000 tiến sĩ và tiến sĩ khoa học, trên 6.000 giáo sư, phó giáo sư. Ước tính tổng số tri thức, công chức, viên chức của cả nước hiện nay là khoảng 3,5 triệu người. Trí thức làm việc trong khu vực sự nghiệp chiếm 71%, khu vực hành chính chiếm gần 22% và khu vực kinh doanh 7%. Đây là lực lượng lao động trí tuệ rất quan trọng của xã hội nước ta, nhất là trong giai đoạn công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Ngoài ra còn phải kể đến lực lượng trí thức Việt Nam ở nước ngoài có khoảng 400.000 người, chiếm trên 10% số người Việt Nam đang ở nước ngoài.
Tuy chưa đáp ứng được yêu cầu nhưng với một nước đang phát triển, những con số trên không phải là quá nhỏ. Nhìn vào công trạng, trí thức Việt Nam thông minh, sáng tạo, trọng nghĩa cả, sẵn sàng khước từ giàu sang, thậm chí hi sinh cả thân mình để dân tộc và đất nước có ngày nay.
Những thành tựu đạt được trong thời kỳ đổi mới trên các lĩnh vực kinh tế, văn hóa, khoa học, giáo dục gắn liền với sự đóng góp to lớn của đội ngũ tri thức.
Tuy nhiên, nhìn chung trí thức nước ta còn thiếu và yếu, tài năng nổi bật còn ít, uy tín quốc tế chưa nhiều, khát vọng sáng tạo còn hạn chế, một số trí thức giảm sút ý chí.
Về số lượng, mặc dù đội ngũ trí thức tuy có tăng nhiều nhưng vẫn thấp hơn các quốc gia khác về tỷ lệ so với dân cư và trình độ còn hạn chế.
Chất lượng đội ngũ trí thức thấp, vẫn chưa hợp lý và đang có xu thế lão hóa.
Hệ thống giáo dục, đào tạo nước ta còn nhiều bất cập cả về chương trình giáo dục - đào tạo, trình độ thầy cô giáo…, còn nhiều tiêu cực trong hệ thống thi cử và cấp văn bằng, chứng chỉ. Theo danh sách công bố kết quả bình chọn 200 trường đại học hàng đầu thế giới của tạp chí Times Higher Education thì không có trường nào của Việt Nam đứng vào top 200. Thậm chí, người ta có xếp hạng 400 hoặc 500 trường đại học thế giới, chưa chắc có trường đại học nào của Việt Nam đứng trong hàng ngũ đó.
Nghị quyết Hội nghị Trung ương 7 (khóa X) đã chỉ ra những hạn chế, yếu kém, một thực tế là trình độ của trí thức Việt Nam còn nhiều bất cập, số lượng và chất lượng chưa đáp được yêu cầu của sự phát triển đất nước. " Trong khoa học tự nhiên và công nghệ, quốc tế còn quá ít. Trong khoa học xã hội và nhân văn, nghiên cứu lý luận còn thiếu khả năng dự báo và định hướng, chưa giải đáp được nhiều vấn đề do thực tiễn đổi mới đặt ra, chưa có công trình sáng tạo lớn, nhiều công trình còn sơ lược, sao chép". " Trình độ của trí thức ở nhiều cơ quan nghiên cứu, trường đại học tụt hậu so với yêu cầu phát triển đất nước và so với một số nước tiên tiến trong khu vực, nhất là về năng lực sáng tạo, khả năng thực hành và ứng dụng, khả năng giao tiếp bằng ngoại ngữ và sử dụng công nghệ thông tin". Cái yếu nhất hiện nay của lớp trí thức là rất hạn chế khả năng nghiên cứu, khả năng tổng kết.
Việc sử dụng đội ngũ tri thức và phát huy vai trò của họ cũng đặt ra nhiều vấn đề bức xúc cần quan tâm giải quyết:
- Trước hết, theo đánh giá của nhiều học giả, trí thức là chúng ta đang thiếu một chiến lược đào tạo và phát huy tài nguyên chất xám ở quốc gia dù tài nguyên đó đang ở trong nước hay ở ngoài nước; thiếu một cái nhìn khoa học, tiên tiến về tri thức; coi trọng kinh nghiệm, đề cao những giá trị thực dụng. Đã có thời điểm, những quan điểm như vậy chi phối cách nhìn nhận về trí thức, tạo ra sự thiếu tin cậy lẫn nhau, tác động tiêu cực tới một bộ phận không nhỏ trí thức, ngay với những người có nguồn gốc xuất thân từ công nhân và nông dân.
- Thứ hai, chưa có môi trường thật sự dân chủ cho phát huy trí tuệ của mọi người. Vì không có môi trường thật sự dân chủ nên tình trạng độc quyền chân lý trong một thời gian dài. Đây là nhân tố kìm hãm sự phát huy trí tuệ và kìm hãm sự phát triển của khoa học.
- Thứ ba, cơ chế trọng dụng nhân tài còn nhiều bất cập. Với cơ chế hiện nay, chúng ta đang trọng dụng bằng cấp hơn trọng dụng người tài. Nhiều người cứ ngộ nhận rằng, bằng cấp là tất cả và trên hết. Vì vậy, từ chế độ lương bổng, đãi ngộ chỉ dành cho người có chức có quyền, không khuyến khích nhà khoa học làm công tác chuyên môn. Tâm lý muốn sử dụng bằng cấp để leo lên những vị trí lãnh đạo chứ không phải sử dụng bằng cấp để làm chuyên môn, để cống hiến cho khoa học. Cho nên ở nước ta có một tình trạng đầy nghịch lý, người có bằng cấp thì nhiều, nhưng sự cống hiến cho khoa học rất hạn chế, nhiều nhà khoa học hàng năm không công bố được công trình khoa học nào. Đúng như tác giả Lê Thanh Phong nhận xét: " Chúng ta có nhiều giáo sư, tiến sỹ, nhưng khan hiếm công trình nghiên cứu khoa học có giá trị. Chưa có trường đại học nào của Việt Nam công bố được một công trình khoa học gây sự chú ý của cộng đồng khoa học quốc tế".
- Thứ tư, điều kiện làm việc thiếu thốn, việc làm không đúng sở trường, đời sống khó khăn, môi trường xã hội không thuận lợi… Về đời sống của giới tri thức khoa học, lương một giáo sư giỏi đại học chỉ vài triệu/tháng và có nơi đến cả phòng làm việc riêng cũng không có, các trang thiết bị cho nghiên cứu khoa học như Internet, phòng thí nghiệm… cho đến các dịch vụ văn phòng còn hạn chế.
Về điều kiện sinh sống của trí thức khoa học Việt Nam thì "thù lao được trả căn cứ vào thâm niên và lương cứng thấp đến nỗi các giảng viên đại học phải "đi đêm" rất nhiều để có thể đảm bảo cuộc sống", như hai tác giả Thomas J. Valley và Ben Wilkinson nhận xét.
Vì thiếu môi trường khoa học nên nhiều nhân tài nước ta phải ra nước ngoài mới phát huy được trí tuệ của mình. Trường hợp nghệ sỹ nhân dân Đặng Thái Sơn, GS Ngô Bảo Châu và nhiều nhà tri thức khác khi ra nước ngoài mới có môi trường đào tạo và nghiên cứu tốt để phát huy tài năng, trí tuệ của mình là minh chứng điển hình.
Để tồn tại đã buộc nhà nghiên cứu khoa học hoặc "gác khoa học" lại để mưu sinh hoặc chân trong chân ngoàiđể có phụ thu… Họ phải tự xoay và xoay giỏi lại khẳng định sự "thức thời" trước sự cổ điểncủa nguyên tắc nghiên cứu. Khi mà lối sống và đời sống của con người, nhất là của giới tri thức trong ngành giáo dục - đào tạo và nghiên cứu khoa học, không thể tiệm cận với giá trị văn hóa cũng như giá trị của "chân, thiện, mỹ" thì sự đảo lộn các giá trị, trật tự xã hội hay ô nhiễm môi trường xã hội, môi trường tự nhiên là lẽ đương nhiên. Một xã hội, một cá nhân không thể tồn tại và phát triển trong sự ô nhiễm của môi trường mà do chính những con người, cá nhân đã và đang lấy đi tương lai chỉ để thỏa mãn cho hiện tại. Theo nhận định của GS Hoàng Tụy: " Trên một nền tảng đạo đức học thuật như vậy mà số tiến sĩ,"viện sĩ" dỏm mỗi năm đều tăng với một mức không có nước nào trong khu vực bì kịp thì thử hỏi sự ô nhiễm môi trường khoa học nguy hiểm đến đâu. Khi sự gian dối đã len vào mọi hoạt động khoa học và giáo dục thì nó có nguy cơ biến thành một nếp sống, một nét văn hóa phổ biến cực kỳ xấu xa của xã hội".
Từ thực trạng đội ngũ tri thức và việc phát huy trí tuệ Việt Nam thời gian qua, để phát huy trí tuệ Việt Nam trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa hiện nay, cần thực hiện tốt các vấn đề sau:
- Phải coi trọng đào tạo và sử dụng có hiệu quả nguồn nhân lực lao động nói chung và nguồn nhân lực trí tuệ nói riêng.
Thời kỳ mới đặt ra yêu cầu mới đối với sự nghiệp giáo dục - đào tạo, đòi hỏi phải từng bước đổi mới hệ thống giáo dục quốc dân, cải cách hệ thống đào tạo, từ giáo dục mầm non đến đại học nhằm nâng cao dân trí, tạo nguồn phong phú cho đội ngũ tri thức mới, tạo điều kiện để đội ngũ tri thức trẻ hoạt động trong tất cả các lĩnh vực của nền kinh tế quốc dân. Điều đó đòi hỏi phải xác định lại từ mục tiêu đào tạo, nội dung, phương pháp, phương tiện dạy và học cho đến đầu tư, các cơ chế quản lý.
Về phương pháp dạy và học cũng phải đổi mới theo hướng "dạy" tiếp cận đến "hướng dẫn khoa học" và "học" tiếp cận đến "tập dượt nghiên cứu khoa học" nhằm đáp ứng nhu cầu sáng tạo, tìm tòi cái mới.
Chăm lo nguồn tri thức trẻ, từng bước trí thức hóa đối với cán bộ lãnh đạo, quản lý chủ chốt ở các cơ quan đảng, nhà nước, các đoàn thể chính trị của quần chúng.
Có chiến lược đào tạo, tạo nguồn đội ngũ trí thức của dân tộc thiểu số, con em của những người theo đạo.
- Tạo môi trường thuận lợi cho hoạt động khoa học, phát huy tính tích cực lao động sáng tạo của tầng lớp trí thức.
+ Thực hiện dân chủ trong hoạt động nghiên cứu khoa học, khơi dậy trí tuệ của đội ngũ trí thức trong sáng tạo khoa học - kỹ thuật và công nghệ, văn hóa, nghệ thuật.
+ Có chính sách thu hút và sử dụng có hiệu quả đội ngũ tri thức, đặc biệt là các nhà khoa học có tầm cỡ quốc gia, cán bộ khoa học đầu đàn.
+ Có chính sách đầu tư thỏa đáng cho việc xây dựng cơ sở vật chất.
Theo GS Hoàng Tụy, với đam mê khoa học, niềm vui của đội ngũ trí thức là sáng tạo, muốn phát huy tối đa năng lực sáng tạo đó thì "họ cần lương đủ để dành trọn thời gian làm việc". "Nhưng đồng thời để làm việc có hiệu quả họ còn cần chỗ làm việc đủ tiện nghi tối thiểu, cần phương tiện làm việc thuận lợi (phòng thí nghiệm, thư viện, Internet, thông tin, liên lạc), cần hậu cần khoa học tốt (hỗ trợ các việc văn phòng),…". Điều kiện và môi trường là bệ phóng cho nhà khoa học. Và họ "cần sự thông cảm, ủng hộ và tôn trọng của xã hội và các cơ quan quản lý, cần có bạn bè, đồng nghiệp, học trò và bầu không khí sinh hoạt học thuật dân chủ, phóng khoáng, lành mạnh, khuyến khích sự trao đổi bình đẳng giữa các ý kiến khác nhau, v.v… Chỉ với những điều kiện và một môi trường như thế mới hy vọng có nhiều nhà khoa học làm việc ngày đêm, lăn xả vào những nhiệm vụ khó khăn nhất, như thường thấy ở các trung tâm khoa học lớn trên thế giới".
- Cần có chính sách ưu tiên đào tạo, tuyển chọn, sử dụng và đãi ngộ thích đáng nhân tài. Coi hiền tài là nguyên khí của quốc gia. Nước ta cần có nhân tài trên mọi lĩnh vực, trước hết là trên các lĩnh vực chính trị, kinh tế, khoa học - công nghệ, văn hóa nghệ thuật, thể thao. Ở mọi quốc gia coi nhân tài luôn là một số nhỏ. Để có nhân tài, Đảng và Nhà nước phải có chính sách phát hiện, đào tạo, chăm sóc các nhân tài từ cấp phổ thông. Phải có cơ chế để mọi người có thể học tập rèn luyện, đua tranh tài năng. Cơ chế này chính là cơ chế dân chủ trong học tập, công tác. Cần mở ra nhiều hướng phát triển cho tài năng con người: có thể trong lĩnh vực nhà nước hoặc tư nhân, có thể trong lĩnh vực chính trị hoặc kinh tế, hoặc khoa học - Công nghệ, có thể ở trong nước và cũng có thể ở nước ngoài. Nước ta phấn đấu có nhiều nhà chính trị lỗi lạc hơn, có những nhà tỷ phú, có người được giải Nobel, có nhiều nhà văn hóa thế giới, có nhiều nhà thể thao vô địch thế giới.
- Có chính sách bồi dưỡng, thu hút nhân tài của thế giới hội tụ ở nước ta cho phép họ được ra vào cư trú, làm ăn lâu dài ở nước ta, giảm thuế thu nhập cho họ xuống mức thấp nhất, cho họ có quyền mua nhà, mua quyền sử dụng đất.
- Trong chính sách tiền lương, Đảng và Nhà nước cần có chế độ tiền lương ưu tiên hơn đối với tầng lớp trí thức, đặc biệt là đối với các chuyên gia, các nhà khoa học. Cùng với chính sách tiền lương, cần phải có chế độ chính sách về nhà ở, phương tiện làm việc và nghiên cứu khoa học, chế độ tham quan nghiên cứu thực tế và trao đổi kinh nghiệm ở trong nước và ngoài nước. Cần có chính sách thù lao một cách thỏa đáng đối với những công trình khoa học có giá trị thực tiễn.
Trọng dụng và tôn vinh các nhân tài về khoa học, bằng cách trả lương cao cho các nhà khoa học, công nghệ đầu ngành, có nhiều sáng tạo và phong thưởng cho họ các danh vị xứng đáng.
Kiện toàn hệ thống các cơ quan nghiên cứu và giảng dạy, nghiên cứu và ứng dụng, gắn công nghệ với thị trường, gắn các việc nghiên cứu với các doanh nghiệp. Đổi mới hệ thống đào tạo cán bộ khoa học, chế độ học hàm, học vị.
- Đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối với trí thức. Có chính sách tận dụng tiềm năng chất xám của đội ngũ tri thức, phải trí thức khoa học hóa đảng, nhất là đội ngũ cán bộ các cấp của Đảng, xây dựng mối quan hệ hữu cơ giữa Đảng với tầng lớp trí thức. Phải xây dựng chiến lược khoa học - công nghệ phù hợp với thời kỳ phát triển của đất nước.








