Vấn đề đổi mới hoạt động khoa học và công nghệ
Nhiều công trình khoa học có những đóng góp quan trọng trong việc tiếp tục khẳng định, vận dụng, bổ sung và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh trong giai đoạn hiện nay; lý giải ngày càng sáng tỏ hơn các vấn đề về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Đã xây dựng cơ sở khoa học cho đổi mới và nâng cao trình độ công nghệ. Những kết quả nổi bật trong lĩnh vực toán học, vật lý, tin học, cơ học, hóa học, y học, sinh học, khoa học về sự sống, khoa học trái đất đã tạo tiền đề cho việc nâng cao hiệu quả sản xuất, chất lượng cuộc sống, tiếp thu công nghệ hiện đại, từng bước bảo vệ và sử dụng hợp lý tài nguyên thiên nhiên và sinh thái. Công tác đổi mới quả lý và tổ chức hoạt động KH&CN ngày càng được tăng cường và bước đầu phát huy tác dụng. Nhiều văn bản quy phạm pháp luật về KH&CN đã được ban hành tạo môi trường pháp lý phù hợp, điều kiện thuận lợi cho các tổ chức và cá nhân tham gia hoạt động KH&CN. Khuyến khích động viên các lực lượng khoa học trong toàn xã hội tham gia tích cực và cống hiến cho sự nghiệp phát triển KH&CN.
Tuy vậy, KH&CN nước ta chưa phát triển tương xứng với tiềm năng, nhân lực chưa đáp ứng tốt yêu cầu của quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa, chưa khắc phục được tình trạng tụt hậu so với một số nước trong khu vực.
Một số nguyên nhân của những tồn tại, yếu kém:
Một số cá nhân, đơn vị chưa nhận thức đúng vị trí, vai trò thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội của KH&CN hoặc chưa nhận thức được đặc thù của khoa học. Còn thiếu sự ưu tiên cho những thế mạnh của địa phương, chưa chú trọng vào ứng dụng KH&CN ở một số ngành như công nghệ cao, công nghệ mới. Chưa hình thành thị trường KH&CN. Chưa xác định được vị trí, vai trò ứng dụng triển khai KH&CN nhất là ở cấp cơ sở, chậm đổi mới về cơ chế, chính sách đối với tổ chức bộ máy, công tác cán bộ và hoạt động của hệ thống KH&CN cơ sở. Nền kinh tế hiện đại của đất nước còn thấp, nhỏ chưa thể đáp ứng cho phát triển tiềm lực KH&CN, song phân bổ ngân sác cho khoa học còn bất cập, đã nhỏ lại còn phân tán, không tập trung. Nhiều cán bộ hoạt động và quản lý KH&CN thụ động, không nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ đặc biệt là tin học và ngoại ngữ nên thiếu chuyên gia giỏi. Tính bảo thủ, trì trệ, sản xuất nhỏ lẻ, manh mún, chậm đổi mới, tiếp thu, ích kỷ, địa phương chủ nghĩa vẫn còn.
Thực tế, từ nhiều năm qua cho đến nay, vấn đề "tầm nhìn" xây dựng chiến lược và quy hoạch phát triển KH&CN ở một số địa phương, ngành vẫn chưa có, nên thiếu căn cứ triển khai chương trình, đề án phát triển KH&CN.
Trong hoạt động nghiên cứu, triển khai KH&CN, thiếu cơ chế hợp tác, liên kết giữa nhà khoa học, nhà quản lý, người dân doanh nghiệp, giữa Trung ương, tỉnh, huyện, cơ sở; giữa cơ quan nghiên cứu với đơn vị triển khai, ứng dụng. Vẫn mang nặng tư duy cũ "không nghiên cứu, triển khai những cái mà thực tiễn cần, chỉ nghiên cứu, triển khai những cái mà ta có". Khả năng và cơ chế đặt hàng các nhiệm vụ KH&CN rất hạn chế. Thể hiện việc đề xuất các nhiệm vụ KH&CN chất lượng kém "vừa không đúng, vừa không trúng" hoặc không có tính mới, tính khả thi, khả năng ứng dụng thấp đã vậy kinh phí lại dàn trải, thiếu tập trung trọng điểm; sản phẩm KH&CN có giá trị thấp, thì không thể trở thành hàng hóa và do vậy không hình thành thị trường KH&CN.
Đã vậy, công tác tuyên truyền, phổ biến kiến thức KH&CN còn ít được chú ý. Ngay tại tỉnh Bắc Giang, kinh phí hoạt động nghiên cứu KH&CN cho công tác tuyên truyền, phổ biến kiến thức KH&CN rất thấp chỉ chiếm 0,8% (chưa được 1%) tổng kinh phí cho sự nghiệp KH&CN hàng năm (số liệu kết quả điều tra năm 2009 của Sở KH&CN). Trong đó, chúng ta biết rằng, doanh nghiệp họ có thể chi từ 10 - 30% tổng chi phí sản xuất, thậm chí còn hơn nữa cho hoạt động quảng cáo, tuyên truyền sản phẩm.
Đề xuất một số giải pháp:
- Một là, về đổi mới cơ chế, chính sách: Tiếp tục đổi mới cơ chế, chính sách khuyến khích áp dụng tiến bộ kỹ thuật và đổi mới công nghệ. Mỗi địa phương, ngành và đơn vị cần sớm có chiến lược, quy hoạch va chương trình phát triển KH&CN phục vụ cho từng lĩnh vực, ngành và đơn vị mình. Nghiên cứu và sớm có cơ chế, chính sách để hình thành Doanh nghiệp dịch vụ KH&CN.
Tăng cường quan hệ chặt chẽ hơn nữa nhà quản lý, nhà khoa học, người dân, doanh nghiệp trong KH&CN, thể hiện hàng năm cần mở rộng phạm vi đặt hàng nghiên cứu triển khai KH&CN của doanh nghiệp sản xuất.
Sớm đổi mới mô hình quản lý KH&CN cơ sở, nhất là cấp huyện nên linh hoạt, nếu cấp huyện nào mà hoạt động KH&CN chủ yếu phục vụ sự nghiệp phát triển của địa phương về lĩnh vực nào thì giao việc quản lý KH&CN cho Phòng chức năng cấp huyện đó theo dõi, quản lý. Tăng cường củng cố, kiện toàn Hội đồng KH&CN cấp cơ sở theo hướng tinh, gọn, đủ năng lực và ở các lĩnh vực.
Tăng cường tuyên truyền mạnh mẽ và rộng khắp thông tin, phổ biến kiến thức va các tiến bộ KH&CN đến mọi người dân; xây dựng và phát triển mạng lưới thông tin KH&CN chuẩn bị điều kiện để nối mạng trong cả nước. Cần có chương trình tổng thể, đủ tầm cả về quy mô, phạm vi, kinh phí, sự vào cuộc của tất cả các cơ quan, đơn vị quản lý và hoạt động KH&CN từ nay cho đến năm 2015 nhằm đưa nhanh các kết quả nghiên cứu vào sản xuất, đời sống.
- Hai là, về đổi mới công tác đầu tư các nguồn lực cho KH&CN: Ngân sách Nhà nước cần dành một tỷ lệ thích đáng tùy theo từng ngành cho đổi mới công nghệ trong các doanh nghiệp. Chú trọng đầu tư về KH&CN cho những lĩnh vực ưu tiên như công nghệ cao, công nghệ mới. Chú ý khâu đột phá cần tập trung là tạo ra các sản phẩm có năng suất, chất lượng tốt, giá trị kinh tế cao. Chú trọng công nghệ cao, công nghệ mới như công nghệ sinh học, tự động hóa, công nghệ sạch, công nghệ thông tin, vật liệu mới…
Xã hội hóa hoạt động KH&CN, huy động sự đóng góp vốn, trí tuệ và vật chất cho sự nghiệp phát triển KH&CN. Gắn kỹ thuật vốn thị trường thành giải pháp đồng bộ để mở rộng mô hình.
Tăng cường đào tạo nguồn nhân lực để phục vụ hoạt động nghiên cứu, chuyên giao và quản lý KH&CN. Tăng cường đầu tư đổi mới công nghệ, trang thiết bị hiện đại thay thế dần những công nghệ, trang thiết bị lạc hậu, cũ hỏng, nâng cấp hệ thống công nghệ thông tin tiên tiến, hiện đại. Đẩy mạnh đầu tư xây dựng các cơ sở hạ tầng cho KH&CN, đặc biệt đối với các lĩnh vực nghiên cứu và triển khai.
Đổi mới mạnh mẽ hoạt động KH&CN sẽ góp phần thực hiện các nhiệm vụ, đáp ứng được mục tiêu Chương trình hành động của Bộ KH&CN thực hiện. Kết luận số 24 - TB/TW của Bộ Chính trị: "Nâng cao trình độ nghiên cứu khoa học, năng lực sáng tạo và đổi mới công nghệ, tăng tỷ trọng đóng góp của KH&CN trong việc nâng cao năng suất, chất lượng và năng lực cạnh tranh của sản phẩm, hàng hóa, dịch vụ nhằm thúc đẩy nhanh tốc độ và nâng cao chất lượng tăng trưởng của các ngành, lĩnh vực và cả nền kinh tế; tập trung xây dựng được một nền KH&CN có trình độ trung bình tiên tiến trong khu vực, thực sự là động lực đưa nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại vào năm 2010".








