Vấn đề đầu tư cho khoa học & Công nghệ
Nghị quyết 02-NQ/HNTW và kết luận của Hội nghị trung ương 6 (khóa IX), Đảng ta đã khẳng định giáo dục - đào tạo và khoa học và công nghệ (KH&CN) là quốc sách hàng đầu. Trong Luật KH&CN năm 2000 nêu rõ "KH&CN là quốc sách hàng đầu, giữ vai trò then chốt trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, là nền tảng và động lực cho công nghiệp hóa, hiện đại hóa, phát triển nhanh, bền vững đất nước". Chỉ thị số 63-CT/TW về đẩy mạnh nghiên cứu ứng dụng KH&CN phục vụ công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp và nông thôn, trên cơ sở lấy KH&CN làm nền tảng, động lực và khâu đột phá trong quá trình thúc đẩy phát triển kinh tế -xã hội. Chỉ thị 50-CT/TW đưa công nghệ sinh học vào sản xuất, để định hướng và tạo mọi điều kiện thuận lợi cho hoạt động nghiên cứu và phát triển khoa học. Trên cơ sở đó, Việt Nam đã từng bước khẳng định những bước đi đúng trong chiến lược phát triển và phát triển bền vững nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động và tăng cường hiệu quả quản lý nhà nước về KH&CN, bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân trong hoạt động KH&CN. Để phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, Nhà nước đã tăng cường đầu tư từ nguồn ngân sách cho các hoạt động KH&CN. Cụ thể, Nhà nước đã đầu tư 2% tổng chi ngân sách cho các hoạt động xây dựng, phát triển, nâng cấp cơ sở vật chất phục vụ các nhiệm vụ nghiên cứu khoa học, một phần cho nghiên cứu và chuyển giao công nghệ. Với xuất phát điểm từ nền KH&CN thấp, lạc hậu; đội ngũ cán bộ khoa học và các công nghệ còn bị hạn chế ở nhiều mặt; cơ chế, chính sách chưa thỏa đáng, nguồn kinh phí phải trả lại cho ngân sách. Điều này cho thấy đang có một sự bất cập về hoạt động KH&CN - cái mà chúng ta cần nghiêm túc xem xét. Từ đó đặt ra nhiều câu hỏi trong việc sử dụng vốn tổ chức thực hiện, cơ chế chính sách, công tác quản lý hoạt động KH&CN.
Liên quan đến vấn đề vốn đầu tư, Thứ trưởng Bộ KH&CN Nguyễn Quân đã nêu rõ: Nếu hiểu kinh phí này (2% tổng chi ngân sách) chỉ để chi cho các đề tài nghiên cứu khoa học và chia đều cho số viện nghiên cứu công lập hay số cán bộ nghiên cứu của Việt Nam hiện tại thì con số này có thể coi là đáng kể. Nhưng ít người biết rằng trong 2% tổng chi ngân sách hàng năm đó (tương đương 0,5% GDP), hơn 40% được dành cho đầu tư phát triển, phân bổ cho các bộ, ngành, địa phương, chủ yếu là cho xây dựng cơ bản và hạ tầng KH&CN. Từ 40-45% kinh phí do các bộ, ngành, địa phương trực tiếp quản lý để chi thường xuyên và chi sự nghiệp cho bộ máy quản lý và nghiên cứu. Bộ KH&CN trực tiếp quản lý khoảng 8-11% kinh phí, là tiền đầu tư vào 20 chương trình KH&CN trọng điểm cấp nhà nước, các chương trình mục tiêu quốc gia. Bên cạnh đó, tỷ lệ đầu tư cho đổi mới công nghệ của các doanh nghiệp Việt Nam - đối tượng chính ứng dụng các sáng chế, giải pháp hữu ích lại rất thấp (chỉ chiếm khoảng 0,2-0,3% doanh thu), trong khi đó Hàn Quốc Nhật Bản lên tới trên 10%. Tỷ lệ đổi mới máy móc thiết bị của Việt Nam hàng năm cũng chỉ đạt 8-10%, trong khi các nước trong khu vực có mức tương ứng là 15-20%. Nghịch lý tại Việt Nam hiện nay ở chỗ đầu tư cho KH&CN từ ngân sách nhà nước gấp khoảng 5 lần so với khu vực ngoài nhà nước (hệ thống doanh nghiệp, công ty, cơ quan, tổ chức, trung tâm…) - một tỷ lệ rất lớn.
Hiệu quả của việc đầu tư cho nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ từ ngân sách là rất đáng khích lệ, tuy nhiên, tỷ lệ kinh phí dành cho các đề tài nghiên cứu vẫn chỉ chiếm phần nhỏ. Với một nước đang phát triển như Việt Nam, con số ấy không đủ cho đòi hỏi đổi mới công nghệ, sản xuất ra những mặt hàng công nghệ cao, có thể cạnh tranh với các nước khác và phục vụ nội địa.
Đặt ra vấn đề định lượng các công trình khoa học dù nhà nước hay tư nhân đều mong có nhiều công trình nghiên cứu khoa học ứng dụng vào thực tiễn cuộc sống, sản xuất, kinh doanh. Không ai muốn kết quả nghiên cứu của mình chỉ dừng lại ở các báo cáo khoa học hoặc vấn đề còn đang được tranh luận. Thực tế cho thấy, KH&CN nước ta chỉ đáp ứng được một phần rất nhỏ so với sự kì vọng và số tiền Nhà nước bỏ ra mỗi năm. Trong xu thế toàn cầu hòa như hiện nay, tính mới và thời gian sống của các công trình nghiên cứu và giải pháp kỹ thuật nói chung là rất ngắn. Đây chính là áp lực lớn nhất cho các nhà khoa học, nhà quản lý và bản thân KH&CN của cái gọi là "tiên tiến"
Bộ Chính trị đã ra Thông báo Kết luận số 234-TB/TW về "Báo cáo kiểm điểm tình hình thực hiện Nghị quyết Trung ương 2 (khóa VIII) về KH&CN từ nay đến năm 2020". Trong đó, việc đầu tư cho KH&CN đã có một số ngành kinh tế phát triển vượt bậc trong thời gian qua như: Thủy sản, đóng tàu, viễn thông, dầu khí, khai thác tài nguyên khoáng sản, sản xuất vắc-xin, thuốc chữa bệnh, thủy điện, công nghệ thông tin… Đây là thành quả lớn lao của tập hợp các nhà khoa học trong nước. Chúng ta không nên đặt câu hỏi như KH&CN đóng góp bao nhiêu trong GDP. Khoa học ứng dụng có thể phần nào thấy hiệu quả đóng góp, song khoa học cơ bản, khoa học xã hội và nhân văn rất khó có thể "định lượng". Nên chăng điều cần lúc này là đánh giá hiệu quả hoạt động KH&CN một cách biện chứng. Tức là ngoài hiệu quả trực tiếp, KH&CN còn có hiệu quả tiềm năng. Chẳng hạn như chúng ta nghiên cứu giống ngô lai nhưng mất gần 30 năm sau mới khẳng định và giành lại thị phần giống ngô lai trong nước; hay phải tính đến cả hiệu quả mang tính tích hợp như Việt Nam chặn đứng được dịch viêm đường hô hấp cấp (SARS) sớm nhất thế giới nhờ công của các nhà nghiên cứu siêu vi trùng, dịch tễ học và điều trị. Thật khó có thể tính đến hiệu quả gián tiếp từ việc chúng ta đã sản xuất được hầu hết các loại vắc-xin như cúm, sởi, bại liệt, uốn ván… hay sử dụng kỹ thuật AND xác định danh tính liệt sỹ của Viện công nghệ Sinh học thuộc Viện KH&CN Việt Nam …








