Vấn đề đào tạo nhân lực điện hạt nhân ở việt nam
Năng lượng nguyên tử (NLNT) đã trở thành một nguồn năng lượng quan trọng của nhân loại và ĐHN là bộ phận cấu thành quan trọng của ngành công nghiệp điện lực thế giới. Đối với nhiều quốc gia, ĐHN chính là động lực cho quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Tổng công suất lắp đặt của ĐHN là một chỉ số phản ảnh thực lực và trình độ tổng hợp về kinh tế, khoa học và công nghệ (KH&CN) của một quốc gia. Hiện nay, đã có trên 400 tổ máy ĐHN đang vận hành ở 31 quốc gia và vùng lãnh thổ, cung cấp 17% tổng sản lượng điện của toàn thế giới. Hiện có trên 50 quốc gia đang phát triển như Việt Nam đã đề nghị Cơ quan Năng lượng nguyên tử quốc tế (IAEA) giúp đỡ xây dựng và thực hiện chương trình phát triển ĐHN. Việt Nam đã có sự chuẩn bị lâu dài cho chương trình ĐHN của mình và hiện đang trong quá trình triển khai dự án xây dựng nhà máy ĐHN đầu tiên với tổng công suất 4.000 MW. Dự kiến tổ máy đầu tiên sẽ đi vào vận hành phát điện thương mại vào năm 2020. Trong số các công việc cần chuẩn bị cho chương trình ĐHN thì nguồn nhân lực là một yếu tố quan trọng, cần phải được quan tâm đi trước một bước.
Nhu cầu nhân lực cho việc thực hiện chương trình ĐHN ở giai đoạn đầu tiên từ nay đến năm 2020
Nguồn nhân lực để thực hiện chương trình ĐHN bao gồm các loại sau: Nguồn nhân lực cho thực hiện dự án xây dựng các nhà máy ĐHN; nguồn nhân lực cho thực hiện các hoạt động nghiên cứu và triển khai (R&D) và hỗ trợ kỹ thuật; nguồn nhân lực cho các cơ quan quản lý nhà nước nói chung và cho cơ quan quản lý an toàn bức xạ và hạt nhân (ATBX&HN) nói riêng; nguồn nhân lực cho các hoạt động giáo dục và đào tạo về hạt nhân.
Nhân lực cho thực hiện dự án xây dựng nhà máy ĐHN cần rất nhiều, có thời điểm cần từ 6.000 đến 10.000 người làm việc trên công trường (tùy theo quy mô nhà máy). Tuy nhiên, nguồn nhân lực này chủ yếu là công nhân và do các nhà thầu xây dựng phải đảm nhận. Đối với nước ta, các nhà thầu xây dựng sẽ huy động nhân lực đã từng làm việc ở các công trình công nghiệp lớn như thủy điện, nhiệt điện khí, nhiệt điện than, công trình giao thông, cầu đường. Lực lượng lao động này ở Việt Nam đã có khá nhiều và cũng tương đối có kinh nghiệm trong thi công các công trình trọng điểm quốc gia. Nhân lực cần quan tâm chuẩn bị cho dự án chính là đội ngũ cán bộ quản lý dự án các cấp và cán bộ vận hành, bảo dưỡng nhà máy ĐHN sau này.
Nhân lực R&D ở giai đoạn ban đầu khi mà dự án xây dựng nhà máy ĐHN đầu tiên được thực hiện theo phương thức hợp đồng chìa khoá trao tay với nước ngoài thì chưa cần nhiều, chỉ cần một số chuyên gia có trình độ để tham gia vào quá trình tư vấn lựa chọn công nghệ, xây dựng báo cáo đầu tư, lập dự án đầu tư và làm nòng cốt để sau này tham gia vào quá trình nội địa hoá công nghệ. Đội ngũ này là các cán bộ chủ chốt đang làm việc tại Viện NLNT Việt Nam .
Nhân lực hỗ trợ kỹ thuật cần sớm chuẩn bị để có đủ năng lực tham gia phân tích, đánh giá, thẩm định an toàn dự án ĐHN và kiểm định an toàn công trình xây dựng, các cấu kiện của nhà máy trước khi cấp phép. Đây là đội ngũ cán bộ đang làm về an toàn hạt nhân và đánh giá không phá huỷ (NDE). Phần lớn đội ngũ này cũng đang làm việc tại Viện NLNT Việt Nam .
Các cơ quan quản lý nhà nước bao gồm: Cục NLNT (sẽ được thành lập tại Bộ KH&CN), Cục ATBX&HN, Cục An toàn công nghiệp (ATCN), Cục Bảo vệ môi trường, là các cơ quan chủ yếu sẽ tham gia quản lý chương trình ĐHN. Nguồn nhân lực của các cơ quan này về cơ bản đã có, tuy nhiên cũng cần có kế hoạch bổ sung và đào tạo thêm kiến thức về hạt nhân. Trong đó cần tập trung ưu tiên chuẩn bị nguồn nhân lực cho các cơ quan pháp quy hạt nhân (Cục ATBX&HN, Cục ATCN).
Các cơ sở đào tạo bao gồm các trường đại học và Trung tâm Đào tạo chuyên ngành hạt nhân (sẽ được thành lập tại Viện NLNT Việt Nam ) - nơi có các thiết bị hạt nhân lớn có thể phục vụ cho công tác đào tạo. Nhân lực của các trường đại học rất quan trọng cho phát triển bền vững, lâu dài của chương trình ĐHN quốc gia, tuy nhiên đối với dự án nhà máy ĐHN đầu tiên thì nó chưa đóng vai trò quyết định. Việc đào tạo sẽ ưu tiên cho loại hình đào tạo qua công việc (OJT) ở Trung tâm Đào tạo chuyên ngành hạt nhân và ở nước ngoài. Trung tâm Đào tạo chuyên ngành hạt nhân sẽ đóng vai trò quan trọng để đào tạo những kiến thức cơ bản về hạt nhân cho các cán bộ nòng cốt không thuộc ngành hạt nhân và đào tạo chuyên sâu cho các cán bộ nòng cốt chuyên ngành hạt nhân tham gia trong chương trình ĐHN quốc gia trước khi gửi đi đào tạo ở nước ngoài. Nguồn nhân lực của Trung tâm này về cơ bản đã có bằng cách huy động các chuyên gia đã và đang làm việc trong Viện NLNT Việt Nam . Đào tạo ở nước ngoài chủ yếu dựa vào đối tác sẽ xây dựng nhà máy ĐHN cho Việt Nam và sự trợ giúp của IAEA.
Với các phân tích nêu trên, nguồn nhân lực cho chương trình ĐHN ở giai đoạn đầu từ nay đến năm 2020 sẽ tập trung vào 3 loại sau: Nhân lực cho thực hiện dự án, nhân lực cho các cơ quan quản lý nhà nước (ưu tiên là cho các cơ quan pháp quy hạt nhân), nhân lực cho cơ quan R&D và hỗ trợ kỹ thuật. Do việc lựa chọn công nghệ ĐHN chưa được quyết định nên việc xác định nhu cầu về 3 loại nhân lực này được thực hiện dựa trên 2 kịch bản về lựa chọn công nghệ như sau:
- Kịch bản 1: Xây dựng nhà máy ĐHN tại 2 vị trí với 4 tổ máy (công suất tổng 4.000 MW) và chọn 1 loại công nghệ cho cả 2 vị trí. Vị trí 1 với 2 tổ vận hành thương mại năm 2019 và 2020. Vị trí 2 với 2 tổ máy vận hành thương mại năm 2020 và 2021.
- Kịch bản 2: Xây dựng nhà máy ĐHN tại 2 vị trí với 4 tổ máy (công suất tổng 4.000 MW) và chọn 2 loại công nghệ cho 2 vị trí. Vị trí 1 với 2 tổ vận hành thương mại năm 2019 và 2020. Vị trí 2 với 2 tổ máy vận hành thương mại năm 2020 và 2021.
Với các điều kiện nêu trên, nhu cầu nhân lực nòng cốt cho chương trình ĐHN được xác định như trong bảng 1 cho 3 loại hoạt động ứng với 2 kịch bản. Kế hoạch phát triển nguồn nhân lực trong từng giai đoạn và chương trình đào tạo dự kiến được nêu trong bảng 2.
Hiện trạng và kế hoạch đào tạo phát triển nguồn nhân lực hạt nhân
Nguồn nhân lực hạt nhân chủ yếu hiện nay của Việt Namđang làm việc tại Viện NLNT Việt Nam (trên 700 người) và Cục ATBX&HN (40-50 người). Đội ngũ cán bộ này sẽ tham gia vào các nhiệm vụ của chương trình ĐHN. Tuy nhiên, cần sớm xác định trách nhiệm của các cơ quan có liên quan trong chương trình ĐHN và có sự bố trí lại đội ngũ này để phục vụ các yêu cầu của chương trình ĐHN. Ví dụ, có thể cử các cán bộ phụ trách Trung tâm Lò phản ứng hạt nhân Đà Lạt, những người đã có trên 20 năm làm việc tại lò Đà Lạt, đi đào tạo để trở thành các kỹ sư trưởng của nhà máy ĐHN đầu tiên. Các chức danh khác trong nhà máy ĐHN đầu tiên cũng phải được làm như vậy. Đây là cách làm hiệu quả và nhanh nhất để có được các chuyên gia nòng cốt cho nhà máy ĐHN đầu tiên trên cơ sở kế thừa các kinh nghiệm đã tích luỹ trong hơn 30 năm phát triển của Viện NLNT Việt Nam .
Các trường đại học trong nước (4 trường) và các viện nghiên cứu hàng năm đào tạo khoảng 50 sinh viên, 20 thạc sỹ và 10 tiến sỹ chuyên ngành hạt nhân, nhưng phần lớn thuộc chuyên môn về vật lý hạt nhân, kỹ thuật hạt nhân, an toàn bức xạ và công nghệ hóa học. Đây cũng là nguồn nhân lực bổ sung rất tốt cho các cơ sở hạt nhân trong nước, tuy nhiên cần có các chương trình đào tạo bổ túc và nâng cao phù hợp theo nhu cầu sử dụng của các cơ quan khác nhau.
Chúng ta chưa đủ điều kiện đào tạo về công nghệ và an toàn ĐHN ở trong nước. Vì vậy, từ năm 2004, Viện NLNT Việt Nam đã hợp tác với IAEA và các đối tác nước ngoài tổ chức các khóa huấn luyện cơ bản chuyên về công nghệ và an toàn ĐHN cho các cơ quan khác nhau ở trong nước, như Cục An toàn Bức xạ và Hạt nhân, Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN), các trường đại học. Từ tháng 8.2007 đến nay, Viện NLNT Việt Nam đã tổ chức các khóa huấn luyện cơ bản (9 tháng) về hạt nhân cho các cán bộ trẻ mới tuyển vào làm việc trong Viện để tạo nguồn lực cho phát triển dài hạn của Viện cũng như cho chương trình ĐHN quốc gia. Viện đang kiến nghị Bộ KH&CN cho phép thành lập Trung tâm Đào tạo chuyên ngành hạt nhân.
EVN đã hoàn thành việc xây dựng chương trình đào tạo phát triển nguồn nhân lực cho thực hiện dự án nhà máy ĐHN đầu tiên (quản lý, mua bán, xây dựng, lắp đặt, vận hành, bảo dưỡng..) và trình Chính phủ từ cuối năm 2006.
Viện NLNT Việt Nam cũng đã hoàn thành xây dựng đề án Chương trình đạo tạo nhân lực nòng cốt cho hoạt động R&D, hỗ trợ kỹ thuật và cho cơ quan quản lý.
Bộ Giáo dục và Đào tạo đang xây dựng chương trình đào tạo phát triển nguồn nhân lực cho các cơ sở đào tạo.
![]() |
Để thực hiện chương trình đào tạo phát triển nguồn nhân lực hạt nhân, cần phải thực hiện các giải pháp sau:
- Phê duyệt chương trình đào tạo phát triển nguồn nhân lực hạt nhân quốc gia trong quý I năm 2009.
- Thành lập Ban chỉ đạo về đào tạo phát triển nguồn nhân lực trong khuôn khổ Ban chỉ đạo nhà nước về phát triển ĐHN để chỉ đạo các hoạt động đào tạo phát triển nguồn nhân lực hạt nhân trong phạm vi cả nước.
- Thành lập Trung tâm Đào tạo chuyên ngành hạt nhân thuộc Viện NLNT Việt Nam để thực hiện chức năng của một trung tâm đào tạo hạt nhân tiên tiến của quốc gia, chịu trách nhiệm chính trong đào tạo nguồn nhân lực nòng cốt cho chương trình ĐHN ở trong nước.
- Quy hoạch và nâng cấp các khoa, bộ môn đào tạo hạt nhân ở các trường đại học để đảm bảo nhu cầu đào tạo dài hạn về hạt nhân của quốc gia.
- Quy hoạch và điều động các cán bộ hạt nhân đang làm việc ở các cơ sở hạt nhân tham gia vào chương trình ĐHN, có chương trình đào tạo bổ sung, nâng cao cho số cán bộ này theo nhiệm vụ được giao trong chương trình ĐHN.
- Xây dựng chương trình đào tạo tại nước ngoài cho cán bộ nòng cốt của chương trình ĐHN bằng ngân sách nhà nước và thông qua sự hợp tác, giúp đỡ của các đối tác nước ngoài. Sớm xác định đối tác xây dựng nhà máy ĐHN đầu tiên để xây dựng chương trình hợp tác đào tạo nguồn nhân lực hạt nhân với họ.
- Mời các chuyên gia nước ngoài (các nước có nền công nghiệp ĐHN tiên tiến) đến Việt Namgiúp đỡ đào tạo cán bộ trẻ về công nghệ và an toàn ĐHN, đặc biệt là đến làm việc tại Trung tâm Đào tạo chuyên ngành hạt nhân để giúp đỡ công tác đào tạo cho Việt Nam .
- Sử dụng hiệu quả các kênh hợp tác quốc tế đã có như IAEA, RCA, FNCA, ANSN, ANTEP, ANENT, WNU phục vụ cho mục tiêu đào tạo phát triển nguồn nhân lực hạt nhân.
Kết luận
Thực hiện chương trình phát triển ĐHN quốc gia là một nhiệm vụ rất khó khăn, phức tạp đòi hỏi phải có một nguồn nhân lực có trình độ cao, các cơ sở hạ tầng đầy đủ, nguồn đầu tư lớn và sự cố gắng của toàn xã hội. Chương trình đào tạo phát triển nguồn nhân lực hạt nhân cần phải được Chính phủ phê chuẩn càng sớm càng tốt để các cơ quan có liên quan có cơ sở chuẩn bị các loại nguồn nhân lực cần thiết của mình. Ở giai đoạn đầu của chương trình ĐHN (từ nay đến 2020) phải đặc biệt coi trọng việc quy hoạch và bố trí sử dụng hợp lý đội ngũ cán bộ hạt nhân mà chúng ta đã xây dựng được trong hơn 30 năm qua. Cùng với chương trình đào tạo phát triển nguồn nhân lực hạt nhân, Chính phủ cần sớm ban hành các chính sách liên quan đến đào tạo phát triển nguồn nhân lực hạt nhân, bao gồm các chính sách về lương và điều kiện làm việc nhằm thu hút lực lượng cán bộ giỏi về làm việc trong ngành hạt nhân, đặc biệt cho chương trình ĐHN. Do tiềm lực hạt nhân hạn chế và kinh nghiệm còn non trẻ trong lĩnh vực ĐHN, cho nên cùng với việc tăng cường đầu tư của Nhà nước thì hợp tác quốc tế sẽ đóng vai trò cực kỳ quan trọng để thực hiện thành công chương trình đào tạo phát triển nguồn nhân lực hạt nhân. Với vai trò của một cơ quan R&D và hỗ trợ kỹ thuật đầu ngành hạt nhân của quốc gia, Viện NLNT Việt Nam đã và sẽ đóng vai trò quan trọng trong sự nghiệp đào tạo phát triển nguồn nhân lực cho chương trình ĐHN quốc gia.