Vấn đề cải cách quản lý khoa học và công nghệ
Trong khuôn khổ bài viết này, chúng tôi chỉ đề cập một số vấn đề tài chính trong hoạt động nghiên cứu và một số cơ chế chính sách liên quan đến việc hỗ trợ cho hoạt động của các tổ chức khoa học và công nghệ - đơn vị trung gian thực hiện việc nghiên cứu và chuyển giao kết quả nghiên cứu phục vụ sản xuất và đời sống.
Vấn đề tài chính trong việc thúc đẩy hoạt động nghiên cứu khoa học
Trong giai đoạn 2007-2010, đầu tư tài chính cho lĩnh vực nghiên cứu khoa học ngày càng tăng, nhiều văn bản pháp quy được ban hành đã tạo điều kiện thuận lợi để hoạt động nghiên cứu triển khai phát triển. Các văn bản quy định việc quản lý tài chính trong hoạt động nghiên cứu khoa học hiện nay khá chạt chẽ với các định mức dự toán chi tiết đã tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động nghiên cứu khoa học. Tuy nhiên, việc triển khai cũng còn nhiều điểm bất cập, chưa thống nhất.
Thông tư liên tịch 44/2007/TTLT-BTC-BKHCN ra đời, quy định định mức chi tiêu tài chính trong hoạt động nghiên cứu khoa học, mặc dù đã có nhiều cải tiến so với Thông tư 45 trước đây, nhưng vẫn còn nhiều điểm chưa phù hợp. Thông tư chỉ hướng dẫn các định mức dự toán chung, mỗi ngành, địa phương tùy tình hình thực tế của mình đã ban hành rất nhiều định mức khác nhau. Việc ban hành nhiều định mức khác nhau đó, không những khiến các địa phương gặp khó khăn trong công tác quản lý, còn làm các tổ chức khoa học và công nghệ và các nhà khoa học gặp trở ngại khi tham gia dự tuyển chủ trì thực hiện đề tài, dự án tại các địa phương. Trong khi đó, một số định mức chi chưa phù hợp với yêu cầu thực tế. Có thể nêu một ví dụ cụ thể sau: Một đề cương nghiên cứu đối với đề tài KHCN cho tới khi được duyệt thì được thanh toán tối đa là 2.000.000 đồng (đã tăng 1.400.000 so với định mức quy định trước đây), nhưng định mức này vẫn còn khá thấp. Để có được một đề cương tốt, cần phải có những nghiên cứu tổng quan các vấn đề liên quan tới đề tài để xem xét như: vấn đề này đã được thực hiện chưa, kết quả đến đâu, đã có những công bố khoa học nào và cần phải giải quyết tiếp những vấn đề gì. Nhiều khi, vấn đề phức tạp đến mức phải tiến hành sưu tra, khảo sát trước khi xây dựng đề cương. Đề cương được xây dựng chi tiết, khoa học thì mới có cơ sở cho việc triển khai thực hiện đề tài đạt kết quả tốt.
Một hạn chế nữa thường gặp ở các địa phương như việc đầu tư nghiên cứu thường hình thành theo những nhiệm vụ nhỏ lẻ, giải quyết mục tiêu nghiên cứu khá cụ thể, thiếu đầu tư thành chương trình trọng tâm, tạo ra sản phẩm mới một cách rõ ràng, toàn diện. Từ đó đặt ra vấn đề - nên chăng cần đẩy mạnh việc đầu tư kinh phí nghiên cứu khoa học theo các chương trình nghiên cứu trọng điểm dựa trên quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội, quy hoạch phát triển khoa học và công nghệ của địa phương nhằm phát huy lợi thế, khả năng cạnh tranh của các sản phẩm đặc thù. Nhà nước nên có những hướng dẫn cụ thể cho việc thực hiện khoán kinh phí theo sản phẩm đặt hàng. Đây là hình thức đã có thông tư ban hành, nhưng trong quá trình tổ chức thực hiện tại các địa phương còn nhiều bất cập do văn bản hướng dẫn thiếu cụ thể. Có nhiều ý kiến cho rằng, nên trả lương xứng đáng cho người làm trực tiếp khi họ nghiên cứu thành công một sản phẩm cụ thể, có hiệu quả thiết thực về kinh tế và xã hội thay vì thanh quyết toán theo từng chứng từ với từng hạng mục cụ thể như hiện nay.
Vấn đề đầu tư tài chính, xây dựng cơ chế, chính sách hỗ trợ
Rõ ràng, trong 3 vấn đề: kinh phí, tổ chức và cơ chế quản lý thì việc xây dựng hệ thống cơ chế, chính sách hợp lý cho việc triển khai hoạt động khoa học nói chung, trong đó có cơ chế hỗ trợ các tổ chức khoa học và công nghệ hoạt động kịp thời là khó khăn nhất. Mặc dù đề án đổi mới cơ chế quản lý khoa học và công nghệ đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt tháng 9/2004, đề án phát triển thị trường khoa học và công nghệ được thông qua từ tháng 8/2005, Nghị định quy định cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm của các tổ chức KHCN cũng được thông qua từ tháng 9/2005, nhưng cho đến nay, văn bản hướng dẫn vẫn chưa được ban hành, do đó việc triển khai chung khá chậm và chưa thống nhất trong toàn quốc.
Hoạt động nghiên cứu, đào tạo và chuyển giao chưa được phối hợp chặt chẽ với nhau. Hiện nay, đề tài/dự án cấp bộ, ngành, địa phương được triển khai rất nhiều, dẫn đến tình trạng nghiên cứu trùng lắp, tính mới không có hoặc bỏ trống nhiều lĩnh vực quan trọng do cách nhìn thiếu tổng quát và cách quản lý không thống nhất từ trên xuống. Việc định hướng tổ chức các đơn vị sự nghiệp khoa học và công nghệ theo tinh thần Nghị định 115 của Chính phủ là hướng đi đúng đắn và cần thiết. Tuy nhiên, để Nghị định được triển khai sớm và thống nhất, rất cần phải có các văn bản hướng dẫn cụ thể hơn.
Có thể nói Nghị định 115/2005/NĐ-CP và Nghị định 80/2007/NĐ-CP là những giải pháp quan trọng về tổ chức và hoạt động của các đơn vị sự nghiệp khoa học. Nghị định quy định việc giao quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm cao nhất cho các tổ chức KHCN công lập - những đơn vị mà trong nhiều năm qua được hưởng kinh phí hoạt động thường xuyên từ ngân sách Nhà nước theo cơ chế bao cấp. Có thể nêu một số dẫn chứng cụ thể sau:
Trong nội dung của Nghị định 115, cho phép các tổ chức khoa học và công nghệ khi có sản xuất kinh doanh được hoạt động "như doanh nghiệp", được cấp đăng ký kinh doanh như doanh nghiệp, miễn giảm thuế thu nhập doanh nghiệp (miễn trong 4 năm đầu, giảm 50% trong 9 năm tiếp theo…); có quyền xuất, nhập khẩu công nghệ và sản phẩm thuộc lĩnh vực chuyên môn; được liên doanh, liên kết sản xuất với mọi tổ chức và cá nhân trong ngoài nước…
Mặc dù có nhiều ưu đãi như thế, nhưng không phải đơn vị nào cũng nhanh chóng thực hiện chuyển đổi theo hướng Nghị định 115, nhất là các đơn vị sự nghiệp KHCN tại địa phương; nhiều đơn vị đã kéo dài thời gian chuyển đổi để tiếp tục nhận sự hỗ trợ về tài chính của Nhà nước. Thế nên, tốc độ chuyển đổi của các đơn vị sự nghiệp khoa học tại địa phương rất chậm.
Thực tế hiện nay có không ít nhà khoa học, viện nghiên cứu khi chuyển sang cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm trong hoạt động, thường chỉ chú trọng tìm đề tài/ dự án để bảo đảm quỹ lương, tăng thu nhập, chứ ít quan tâm đến sức sống của chúng trong sản xuất và đời sống.
![]() |
Khó khăn ở đây, có thể còn phụ thuộc vào suy nghĩ, nhận thức của các cấp lãnh đạo - rất ngại khi phải đối diện với vấn đề "tự trang trải kinh phí". Hơn nữa, làm thế nào chuyển từ cơ chế chủ yếu dựa vào đầu tư của Nhà nước, dựa vào khách hàng Nhà nước, sang cơ chế đa dạng về nguồn thu, tạo sự cạnh tranh trên thị trường trong khi các văn bản về tài chính chuyển đổi rất chậm? Làm thế nào để kết quả nghiên cứu được hỗ trợ và giám sát, được tuyên truyền và áp dụng trong thực tiễn,…? Rất nhiều câu hỏi liên quan đến cơ chế chính cần được giải đáp để khoa học và công nghệ thật sự là đòn bẩy, góp phần phát triển kinh tế - xã hội.
Một số đề xuất nâng cao hiệu quả quản lý khoa học và công nghệ tại địa phương
Để đề tài/dự án có tính khả thi cao, việc đề xuất nhiệm vụ cần được gắn với nhu cầu thực tế của sản xuất và đời sống. Hiện nay, chúng ta thiếu hẳn cơ chế ràng buộc trách nhiệm của cơ quan chủ trì và chủ nghiệm đề tài/dự án trong việc duy trì nhân rộng, phát triển kết quả sau nghiệm thu. Lâm Đồng được xem là một địa phương tiên phong trong triển khai nhân rộng kết quả sau nghiệm thu nhờ việc bố trí kinh phí để thực hiện nhiệm vụ này. Tuy nhiên, kinh phí đầu tư cho việc nhân rộng các kết quả sau nghiệm thu còn thấp và chưa được triển khai theo những quy định quản lý cụ thể.
Sở KHCN thường bố trí các buổi thảo luận với các sở, ngành để thống nhất danh mục nhiệm vụ dự kiến thực hiện trình Hội đồng xác định nhiệm vụ xem xét, lựa chọn. Ủy ban nhân dân tỉnh cũng đã quy định trách nhiệm đề xuất nhu cầu, tuy nhiên vẫn chưa được các sở, ngành quan tâm thật sự. Thông thường, các ngành đề xuất những nhiệm vụ có khả năng thực hiện được hơn là đề xuất những nhu cầu mà thực tế quản lý và sản xuất đặt ra. Chính vì vậy, đã ảnh hưởng nhiều đến hiệu của các nhiệm vụ này trong quá trình thực hiện và ứng dụng sau nghiệm thu.
Việc hỗ trợ cho các doanh nghiệp khoa học và công nghệ hoạt động hiệu quả là rất cần thiết trong giai đoạn hiện nay. Cần thiết lập các cơ chế, chính sách hỗ trợ doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế nhập khẩu công nghệ tiên tiến, tiết kiệm năng lượng, vật tư, nuôi dưỡng hệ thống phát triển khoa học và công nghệ nhằm khuyến khích, hỗ trợ và từng bước nâng cao khả năng cạnh tranh. Nhìn lại thực tế hiện nay, việc nhập khẩu thiết bị máy móc và công nghệ của các doanh nghiệp vượt quá tầm kiểm soát của cơ quan chức năng, hay nói cách khác, việc quản lý thường "theo sau" nhu cầu phát triển của doanh nghiệp. Trong khi đó, khi doanh nghiệp có nhu cầu cần Nhà nước hỗ trợ, thì các văn bản, thủ tục giải quyết rườm rà, tạo tâm lý chán nản do mất nhiều thời gian đi lại để được cơ quan quản lý chấp nhận hỗ trợ.
Giải pháp quan trọng hiện nay là nên sớm hình thành và đưa vào hoạt động Quỹ Phát triển khoa học và công nghệ tại địa phương. Cần có cơ chế miễn giảm thuế hoặc ưu tiên cho vay vốn từ Quỹ Đầu tư phát triển, Quỹ Phát triển KHCN quốc gia hoặc địa phương để doanh nghiệp hoàn thiện công nghệ, đa dạng hóa sản phẩm,… đồng thời, có cơ chế khuyến khích rõ ràng: nếu công trình được ứng dụng vào thực tế sản xuất, Nhà nước sẽ không lấy lãi, hoặc các sản phẩm từ các dự án sản xuất thử nghiệm được miễn giảm thuế một cách rõ ràng. Có như vậy mới tạo điều kiện thuận lợi để doanh nghiệp phát triển, từng bước nâng cao hiệu quả quản lý khoa học và công nghệ tại địa phương.









