Liên hiệp các hội khoa học và kỹ thuật Việt Nam
Thứ năm, 05/01/2012 20:33 (GMT+7)

Vai trò của nguồn lực cán bộ Khoa học Kỹ thuật quân sự đối với an ninh Quốc phòng và kinh tế Quốc dân

DẪN NHẬP

Nguồn lực cán bộ khoa học kỹ thuật quân sự là tổng hòa các yếu tố số lượng, chất lượng và cơ cấu cán bộ khoa học ở các lĩnh vực khác nhau thuộc các đơn vị khoa học công nghệ trong quân đội. Cán bộ khoa học kỹ thuật quân sự là lực lượng có tiêm năng sáng tạo lớn, họ tích cực tiếp thu, chuyển giao công nghệ, khoa học kỹ thuật quân sự nước ngoài vào xây dựng nền khoa học kỹ thuật quân sự Việt Nam hiện đại. Mặt khác, họ đang cùng với đội ngũ cán bộ khoa học kỹ thuật quốc gia đẩy mạnh việc nghiên cứu, sáng chế, phát triển khoa học kỹ thuật dân dụng, dân sinh, gắn kết khoa học và công nghệ quốc phòng với sự phát triển kinh tế của đất nước; góp phần phát triển sự nghiệp giáo dục-đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực khoa học kỹ thuật có chất lượng cao cho quân đội và đất nước.

1. NGUỒN LỰC CÁN BỘ KHOA HỌC KỸ THUẬT QUÂN SỰ GÓP PHẦN XÂY DỰNG TIỀM LỰC KHOA HỌC, CÔNG NGHỆ QUỐC PHÒNG, ĐÁP ỨNG YÊU CẦU PHÁT TRIỂN CỦA QUÂN ĐỘI TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY

Cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại với tư cách là lực lượng sản xuất trực tiếp đã và đang tác động sâu sắc đến mọi mặt của kinh tế, xã hội. Những thành tựu của khoa học, công nghệ hiện đại được áp dụng rộng rãi vào lĩnh vực quốc phòng, an ninh, làm thay đổi tính chất của lao động quân sự theo hướng tỷ trọng lao động trí lực ngày càng tăng và có ưu thế hơn so với lao động thể lực.

Từ khi đất nước tiến hành sự nghiệp đổi mới đến nay, chúng ta đang xây dựng và phát triển ngành khoa học kỹ thuật quân sự trên cơ sở các tiềm năng sẵn ­có của mình. Với thực trạng phát triển khoa học, công nghệ của quân đội hiện nay, chúng ta chưa có điều kiện để tạo được bước nhảy vọt trong lĩnh vực này. Trong khi đó, khả năng mua sắm vũ khí, trang bị kỹ thuật hiện đại là rất hạn chế. Thực tế đó đang đặt ra những bài toán đối với Đảng, Nhà nước và quân đội ta: làm sao có thể khai thác hết mọi tiềm năng chất xám và cơ sở vật chất-kỹ thuật để cải tiến, bảo quản và sử dụng có hiệu quả nguồn vũ khí, trang bị kỹ thuật quân sự hiện có, tiến tới chế tạo vũ khí, trang bị kỹ thuật quân sự để phục vụ nhiệm vụ huấn luyện và chiến đấu, bảo vệ Tổ quốc?

Để giải quyết bài toán không mấy dễ dàng nêu trên, ngoài nhiệt tình, trách nhiệm, với tư cách là chủ thể của các hoạt động khoa học kỹ thuật quân sự, đội ngũ cán bộ nghiên cứu khoa học kỹ thuật quân sự đang phải “lao tâm khổ tứ”, tìm tòi, nghiên cứu khoa học, rèn luyện kỹ năng thực hành, kỹ năng triển khai, ứng dụng nhanh chóng những lý thuyết, những tiến bộ của khoa học và công nghệ quân sự hiện đại của thế giới. Đồng thời, kế thừa và phát huy có hiệu qủa những thành tựu về khoa học, công nghệ trong thời gian qua, tìm kiếm giải pháp tối ưu đưa ngành khoa học kỹ thuật quân sự nước nhà phát triển.

2. NGUỒN LỰC CÁN BỘ KHOA HỌC KỸ THUẬT QUÂN SỰ GÓP PHẦN PHÁT TRIỂN SỰ NGHIỆP GIÁO DỤC-ĐÀO TẠO, BỒI DƯỜNG NGUỒN NHÂN LỰC KHOA HỌC KỸ THUẬT CÓ CHẤT LƯỢNG CAO CHO QUÂN ĐỘI VÀ ĐẤT NƯỚC

Hiện nay, đối với nước ta, phát triển kinh tế tri thức là yếu tố quan trọng khắc phục tình trạng tụt hậu về kinh tế, rút ngắn quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước; giữ vững độc lập, tự chủ và hội nhập kinh tế quốc tế. Đồng thời, đáp ứng yêu cầu củng cố quốc phòng-an ninh trong tình hình mới. Sự phát triển kinh tế tri thức và nâng cao sức mạnh chiến đấu của quân đội ta trong chiên tranh công nghệ cao đòi hỏi quân đội và đất nước phải có nguồn nhân lực chất lượng cao.

Cùng với những chủ trương, chính sách và giải pháp có hiệu quả khác, việc phát triển nguồn lực cán bộ khoa học sẽ góp phần tích cực để đạt mục tiêu đó. Bởi lẽ, trước hết, đại đa số cán bộ khoa học là nguồn nhân lực bậc cao của quân đội và đất nước. Đồng thời, thong qua hoạt động thực tiễn như giảng dạy, nghiên cứu, chế tạo, sử dụng, tổ chức quản lý khoa học kỹ thuật quân sự ở các cơ quan, đơn vị đã trực tiếp tham ggia phát triển nguồn nhân lực quân sự và cả dân sự chất lượng cao. Thực tế cho thấy, những năm qua, một bộ phận cán bộ khoa học có trình độ sau đại học công tác tại các học viện, các viện nghiên cứu khoa học kỹ thuật quân sự được giao nhiệm vụ đào tạo,, giảng dạy cán lĩnh vực khác nhau của ngành khoa học kỹ thuật, đang có những đóng góp to lớn vào sự nghiệp giáo dục-đào tạo, góp phần quan trọng trong việc trang bị cho người học những kiến thức khoa học kỹ thuật cần thiết.

3. NGUỒN LỰC CÁN BỘ KHOA HỌC KỸ THUẬT QUÂN SỰ GÓP PHẦN TRONG NGHIÊN CỨU KHOA HỌC VÀ TRIỂN KHAI CÁC CÔNG NGHỆ HIỆN ĐẠI, PHỤC VỤ NỀN KINH TẾ QUỐC DÂN

Với tư cách là một bộ phận quan trọng của xã hội, quân đội ta còn tham gia vào các hoạt động chung của xã hội. Đội ngũ sĩ quan quân đội, đặc biệt là cán bộ khoa học kỹ thuật quân sự không thể tách rời sự nghiệp chung của cả dân tộc; trái lại, họ đóng góp tích cực và có hiệu quả hơn vào sự nghiệp xây dựng đất nước, phát triển kinh tế, xã hội.

Giải pháp lưỡng dụng được thế giới coi là quan trọng và đầy hy vọng để công nghiệp quốc phòng duy trì sự sống còn trong xu thế cắt giảm ngân sách quốc phòng. Đối với một nước nghèo như nước ta hiện nay, khoa học kỹ thuật quân sự cần hướng vào phục vụ kinh tế, nâng cao mức sống của nhân dân, góp phần làm giàu cho đất nước, trên cơ sở đó tạo đòn bẩy để phát triển công nghiệp quốc phòng. Cần coi công nghiệp quốc phòng là bộ phận không thể thiếu trong cơ cấu kinh tế quốc dân, đóng góp vào sự tăng trưởng kinh tế. Với tiềm lực mạnh về khoa học kỹ thuật, công nghiệp quốc phòng cần đi tiên phong trong việc phát triển những ngành công nghệ mũi nhọn như điện tử, tin học, viễn thong… làm chỗ dựa cho kinh tế dân sinh phát triển. Việc quân đội tham gia vào các hoạt động xây dựng và phát triển kinh tế, góp phần tạo nguồn của cải vật chất cho xã hội và gỉai quyết một phần nhu cầu của quân đội vừa là chức năng, vừa thể hiện bản chất, truyền thống tốt đẹp của quân đội ta.

Việc nghiên cứu, ứng dụng và triển khai các công nghệ hiện đại vào phục vụ kinh tế quốc dân, đồng thời sản xuất hang hóa, dịch vụ khoa học kỹ thuật phục vụ dân sinh là một nhiệm vụ quan trọng của công nghiệp quốc phòng nói chung và của các viện nghiên cứu khoa học kỹ thuật quân sự nói riêng. Một mặt, công nghiệp quốc phòng bảo toàn được năng lực nghiên cứu, triển khai công nghệ, sản xuất quân sự và đội ngũ công nhân lành nghề, góp phần nâng cao sức mạnh chiến đấu của quân đội. Mặt khác, thông qua các hoạt động liên doanh, liên kết, đổi mới và chuyển giao công nghệ giữa các doanh nghiệp công nghiệp quốc phòng và các doanh nghiệp công nghiệp then chốt của Nhà nước, các doanh nghiệp công nghiệp quốc phòng có điều kiện để đổi mới kỹ thuật, công nghệ, nâng cao chất lượng sản phẩm, hình thành các tập đoàn kinh tế mạnh để tích tụ, tập trung vốn, quy tụ năng lực sản xuất, mở rộng sản xuất-kinh doanh, cung cấp những sản phẩm hàng hóa và dịch vụ phục vụ tiêu dùng dân dụng và quân dụng. Vì vậy, việc chủ động vận dụng những thành tựu của kinh tế tri thức, kinh tế quân sự tri thức để phát triển công nghiệp quốc phòng nứơc ta là phù hợp với yêu cầu của sự nghiệp xây dựng quân đội và bảo vệ Tổ quốc trong thời kỳ mới.

4. KIẾN NGHỊ VÀ GIẢI PHÁP

Nâng cao chất lượng đào tạo bồi dưỡng

Để xây dựng và phát triển nguồn lực cán bộ khoa học kỹ thuật quân sự, cần tập trung giải quyết việc đào tạo, bồi dưỡng cán bộ. Đây là nội dung quan trọng, cơ bản và lâu dài, có ý nghĩa chiến lược trong xây dựng tiềm lực khoa học kỹ thuật và công nghệ quân sự của nước ta. Nâng cao chất lượng đào tạo, bồi dưỡng là một yêu cầu khách quan, đòi hỏi các cơ sở đào tạo, các cơ quan, đơn vị cần tập trung hoàn thiện mục tiêu, đổi mới nội dung, chương trình đào tạo, bồi dưỡng; chú trọng đến chất lượng nguồn tuyển chọn đầu vào; quan tâm nâng cao chất lượng đội ngũ giảng viên, đáp ứng yêu cầu phát triển của công tác khoa học kỹ thuật và công nghệ quân sự trong tình hình mới.

Bố trí, sử dụng hợp lý và đãi ngộ xứng đáng đối với nguồn lực cán bộ khoa học kỹ thuật quân sự

Nhịp độ phát triển và hiệu quả hoạt động khoa học kỹ thuật quân sự phụ thuộc rất lớn vào các chính sách xã hội. Chính sách xã hội đúng đắn không những có tác dụng điều tiết các hoạt động kinh tế, khoa học kỹ thuật trong quân đội mà còn có tác dụng to lớn trong việc khơi dậy tiềm năng của cán bộ khoa học, nâng cao tính tích cực lao động và tính tích cực chính trị-xã hội của họ, thúc đẩy sự phát triển của khoa học kỹ thuật quân sự. Vì vậy, việc bố trí, sử dụng hợp lý, cùng với việc đãi ngộ xứng đáng về vật chất và tinh thần đối với nguồn lực cán bộ khoa học kỹ thuật quân sự là những vấn đề rất quan trọng nhằm phát huy tối đa năng lực chuyên môn và tinh thần trách nhiệm, gắn bó với nghề nghiệp của nguồn lực này.

Việc phát hiện, chăm sóc, bồi dữơng, bố trí, sử dụng cán bộ khoa học để phát huy tài năng của họ trong lĩnh vực khoa học kỹ thuật quân sự không nên chỉ thể hiện ở quan điểm, trách nhiệm chính trị mà phải được thực hiện bằng cơ chế, chính sách cụ thể.

Xây dựng môi trường xã hội thuận lợi để phát huy năng lực sáng tạo của nguồn lực cán bộ khoa học kỹ thuật quân sự

Trong môi trừơng sống, hoạt động cụ thể, mỗi cán bộ khoa học sẽ tiếp nhận những chuẩn mực xã và nghề nghiệp khoa học, kỹ thuật phù hợp với chức năng, nhiệm vụ của mình, biến thành nhận thức, tình cảm của những cá nhân. Chỉ trong môi trường hoạt động quân sự lành mạnh mới tạo ra những điều kiện thuận lợi để cán bộ khoa học phát huy mọi tiềm năng sáng tạo trong nghiên cứu khoa học và xây dựng đơn vị. Để giải quyết tốt mối quan hệ này cần thực hiện nhiều biện pháp đồng bộ như xây dựng môi trường làm việc, môi trường văn hóa lành mạnh để phát huy khả năng của họ.

Nâng cao ý thức tự học, tự rèn luỵên

Tính tích cực của cán bộ khoa học được hình thành bằng nhiều con đường khác nhau, nhưng tự học, tự rèn luyện với tư cách là hoạt động tự thân, có định hướng, có mục đích là con đường đạt hiệu quả cao nhất, cần được tiến hành thường xuyên, liên tục trong suốt cả cuốc đời. Đây là giải pháp quan trọng để cán bộ khoa học tự củng cố kiến thức, nâng cao trình độ phù hợp với chức năng, nhiệm vụ của mình. Cần phải có biệm pháp kết hợp giữa động viên, khuyến khích với quản lý chặt chẽ hoạt động tự học, tự rèn luyện cán bộ khoa học.

Nâng cao nhận thức, trách nhiệm của các tổ chức, lực lượng đối với việc phát huy vai trò của nguồn lực cán bộ khoa học kỹ thuật quân sự

Phát huy vai trò của nguồn lực cán bộ khoa học kỹ thuật quân sự chỉ có thể đạt được kết quả khi các tổ chức, các lực lượng nhận thức đúng đối tượng, vị trí, vai trò của hoạt động này. Cán bộ khoa học là một bộ phận của đội ngũ cán bộ quân đội, là lực lượng xung kích của đội ngũ cán bộ khoa học kỹ thuật quân sự, giữ vai trò nòng cốt trong việc phát triển nền khoa học kỹ thuật quân sự nước nhà. Bởi vậy, xây dựng nguồn lực cán bộ khoa học vừa là nhiệm vụ trước mắt, vừa là nhiệm vụ có ý nghĩa cơ bản, lâu dài cần được các tổ chức, các lực lượng trong quân đội quán triệt và nhận thức đầy đủ./.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Bộ khoa học và công nghệ. 2003. Sử dụng tri thức phục vụ phát triển đối với Việt Nam . Hà Nội: Nxb. Văn hoa-Thông tin.

2. Đảng Cộng sản Việt Nam . 2000. Các nghị quyết của Trung ương Đảng 1996-1999. Hà Nội: Nxb. Chính trị Quốc gia.

3. Đảng ủy Quân sự Trung ương. 2010. Nghị quyết Đại hội Đại biểu Đảng bộ Quân đội lần thứ IX. Hà Nội.

4. Đức Lê. 2001. Suy nghĩ về xây dựng nguồn lực con người cho quân đội trong thình hình hiện nay. Tạp chí Quốc phòng toàn dân (7).

5. Hoàng Đình Phu. 2004. Công tác nghiên cứu khoa học trong hai cuộc kháng chiến góp phần phát triển tiềm lực khoa học kỹ thuật quân sự. Tạp chí Kỹ thuật và Trang bị (48).

6. Lê Anh Dũng. 2001. Nâng cao chất lượng xây dựng quân đội trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Hà Nội: Nxb. Quân đội nhân dân.

7. Nguyễn hoa thịnh. 1998. Xây dựng và phát triển tiềm lực khoa học và công nghệ trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Hà Nội. Nxb. Quân đội nhân dân.

8. Nguyễn Ngọc Hùng. 2004. Kết quả hoạt động nghiên cứu khoa học-công nghệ làm nền tảng trong công tác kỹ thuật quân sự 30 năm qua (1974-2004), Tạp chí kỹ thuật và Trang bị (84).

9. Phạm Ngọc Chung (chủ biên). 2000. Tình hình và xu hướng xây dựng và phát triển công nghiệp quốc phòng và đảm bảo vũ khí, trang bị kỹ thuật một số nước trên thế giới và khu vực. Hà Nội: Trung tâm thông tin khoa học Công nghệ Môi trường. Bộ Quốc phòng.

10. Viện Khoa học Xã hội Nhân văn Quân sự. 2003. Bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới một số vấn đề lý luận và thực tiễn. Hà Nội: Nxb. Quân đội Nhân dân.

11. Viện Khoa học Xã hội Nhân văn Quân sự. 2005. Nâng cao chất lượng công tác Đảng, công tác chính trị ở các cơ quan, các viện nghiên cứu khoa học công nghệ của quân đội trong thời kỳ mới. Hà Nội: Nxb. Quân đội Nhân dân.

Xem Thêm

Tạo thuận lợi hơn cho công tác tổ chức hội nghị, hội thảo quốc tế
Dự thảo Quyết định điều chỉnh, sửa đổi Quyết định 06/2020/QĐ-TTg ngày 21/02/2020 của Thủ tướng Chính phủ về tổ chức, quản lý hội nghị, hội thảo quốc tế tại Việt Nam nhằm giải quyết những vướng mắc trong quy định hiện hành, tăng cường phân cấp và đơn giản hóa thủ tục hành chính.
Để trí thức khoa học tham gia sâu hơn vào công tác Mặt trận
Hội thảo khoa học tại Hà Nội ngày 6/11/2025 đánh giá thực trạng sự tham gia, phối hợp của Liên hiệp Hội Việt Nam trong các hoạt động chung của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam giai đoạn 2015-2025. Các chuyên gia thẳng thắn chỉ ra những thành tựu, hạn chế và đề xuất giải pháp cho giai đoạn tới.
Còn nhiều rào cản trong thực thi bộ tiêu chuẩn ESG
Hầu hết các doanh nghiệp vừa và nhỏ (DNVVN) nói chung và DNVVN nói riêng trên địa bàn Thành phố Hà Nội gặp nhiều rào cản và thách thức trong thực thi tiêu chuẩn môi trường, xã hội và quản trị (ESG).
Đắk Lắk: Góp ý kiến văn kiện Đại hội lần thứ XIII của Đảng
Ngày 13/6, Liên hiệp hội tỉnh đã tổ chức góp ý kiến đối với dự thảo kế hoạch tổ chức hội nghị lấy ý kiến văn kiện Đại hội lần thứ XIII của Đảng và dự thảo Báo cáo chính trị trình Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh lần thứ XVII, nhiệm kỳ 2025 – 2030.
Hà Giang: Góp ý dự thảo sửa đổi Luật Chất lượng sản phẩm
Ngày 13/6, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật (Liên hiệp hội) tỉnh đã tổ chức hội thảo góp ý dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Chất lượng sản phẩm, hàng hoá (CLSPHH). Tham dự hội thảo có lãnh đạo đại diện các Sở, ban ngành của tỉnh, các hội thành viên Liên hiệp hộivà các chuyên gia TVPB.
Đắk Lắk: Hội nghị phản biện Dự thảo Nghị quyết về bảo đảm thực hiện dân chủ cơ sở
Sáng ngày 27/5/2025, tại trụ sở Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh Đắk Lắk (Liên hiệp hội) đã diễn ra Hội nghị phản biện và góp ý đối với Dự thảo Nghị quyết của Hội đồng nhân dân (HĐND) tỉnh Đắk Lắk về việc quyết định các biện pháp bảo đảm thực hiện dân chủ ở cơ sở trên địa bàn tỉnh.
Phú Thọ: Lấy ý kiến về Dự thảo Nghị quyết sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 2013
Sáng ngày 20/5/2025, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh Phú Thọ (Liên hiệp hội) tổ chức hội thảo lấy ý kiến của đội ngũ trí thức, chuyên gia, nhà khoa học về dự thảo Nghị quyết sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013.

Tin mới

Đoàn Thanh niên VUSTA trao yêu thương, lan tỏa tri thức tới điểm trường Ấm Hiêu, tỉnh Thanh Hóa
Ngày 18/12, Ban Chấp hành Đoàn Thanh niên Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (VUSTA) tham gia Lễ khánh thành Cụm công trình thư viện và nhà vệ sinh tại điểm trường Ấm Hiêu, Trường tiểu học Cổ Lũng, tỉnh Thanh Hóa, đồng thời trao tặng sách, truyện cho các em học sinh tại Điểm trường.
Hội nghị Hội đồng Trung ương Liên hiệp Hội Việt Nam lần thứ 11, khóa VIII
Sáng ngày 19/12, Đoàn Chủ tịch Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (Liên hiệp Hội Việt Nam) tổ chức Hội nghị Hội đồng Trung ương Liên hiệp Hội Việt Nam lần thứ 11, khóa VIII (2020-2025). Hội nghị được tổ chức nhằm đánh giá kết quả hoạt động năm 2025, xác định phương hướng, nhiệm vụ công tác năm 2026; đồng thời xem xét một số nội dung quan trọng thuộc thẩm quyền của Hội đồng Trung ương.
Phó Chủ tịch VUSTA Phạm Ngọc Linh dẫn đoàn Việt Nam tham dự Diễn đàn Kỹ sư Lan Thương - Mekong 2025
Ngày 7/12, tại Tp. Côn Minh, tỉnh Vân Nam, Trung Quốc, Diễn đàn Kỹ sư Lan Thương - Mekong 2025 đã được tổ chức với chủ đề “Kỹ thuật xanh và Phát triển bền vững”. Đoàn Việt Nam do Phó Chủ tịch Liên hiệp Hội Việt Nam Phạm Ngọc Linh - làm trưởng đoàn đã tham dự Diễn đàn. Tham gia Đoàn công tác có đại diện của Hội Thủy lợi Việt Nam, Ban Khoa học và Hợp tác quốc tế, Văn phòng Liên hiệp Hội Việt Nam.
Thúc đẩy ứng dụng AI trong quản lý năng lượng - Giải pháp then chốt giảm phát thải nhà kính
Ngày 17/12, tại phường Bà Rịa, thành phố Hồ Chí Minh (TP.HCM), Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (VUSTA) phối hợp cùng Sở Công Thương TP.HCM, Trung tâm Chứng nhận Chất lượng và Phát triển Doanh nghiệp và Công ty Cổ phần Tập đoàn Vira tổ chức Hội thảo khoa học “Giải pháp thúc đẩy ứng dụng AI trong quản lý, sử dụng năng lượng hiệu quả nhằm giảm phát thải khí nhà kính”.
Liên hiệp Hội Việt Nam đoạt Giải Ba Cuộc thi Chính luận về Bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng
Tham gia Cuộc thi Chính luận về Bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng lần thứ I, năm 2025 trong Đảng bộ MTTQ, các đoàn thể Trung ương, Liên hiệp Hội Việt Nam vinh dự có nhóm tác giả đoạt Giải Ba và Đảng uỷ Liên hiệp Hội Việt Nam là một trong 05 tổ chức Đảng được tặng Bằng khen của Ban Thường vụ Đảng ủy MTTQ, các đoàn thể Trung ương vì đã có thành tích xuất sắc trong tổ chức Cuộc thi.
Ngập úng đô thị - Thách thức và biện pháp giảm thiểu
Hội thảo “Ngập úng đô thị - Thách thức và biện pháp giảm thiểu” là diễn đàn trao đổi khoa học và thực tiễn, tập trung đánh giá toàn diện thực trạng, nguyên nhân và mức độ tác động của ngập úng đô thị, đồng thời đề xuất các giải pháp tổng hợp về quy hoạch, kỹ thuật, quản trị và chính sách…
VUSTA đón tiếp và làm việc với Đoàn công tác Hiệp hội Khoa học và Công nghệ Quảng Đông (GDAST)
Ngày 16/12, tại Trụ sở Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (VUSTA), Phó Chủ tịch VUSTA Phạm Ngọc Linh đã chủ trì buổi tiếp và làm việc với Đoàn công tác của Hiệp hội Khoa học và Công nghệ tỉnh Quảng Đông (GDAST), nhằm trao đổi thông tin, chia sẻ kinh nghiệm và thúc đẩy hợp tác trong lĩnh vực khoa học công nghệ.
Đổi mới tư duy quy hoạch cải tạo đô thị theo hướng phát triển bền vững
Quá trình đô thị hóa gắn liền với các cuộc cách mạnh công nghiệp. Việc cải tạo đô thị ở các giai đoạn đô thị hóa đều được dẫn dắt bởi các tư tưởng quy hoạch, định hình nên mô hình đô thị sau cải tạo. Tư duy quy hoạch cải tạo đô thị nhấn mạnh sự linh hoạt, đề cao sự phát triển bền vững, bảo tồn di sản và sự tham gia của cộng đồng, chuyển từ mô hình một trung tâm sang mô hình đa trung tâm.