Vai trò của khoa học và công nghệ đối với sự phát triển ngành Công nghiệp Cơ khí Việt Nam
Đúng như đánh giá của Phó Thủ tướng Hoàng Trung Hải: "Trong thời gian qua ngành cơ khí đã có nhiều cố gắng nỗ lực vươn lên, cơ khí chế tạo và cung ấp thiết bị toàn bộ, cơ khí xây dựng, mỏ, cơ khí chế tạo thiết bị và vật liệu điên…Nhiều doanh nghiệp sản xuất cơ khí đã từng bước đổi mới, nâng cao khả năng thiết kế, năng lực thiết bị và công nghệ, trình độ quản lý và điều hành nên đã hoàn thành việc đảm nhận vai trò tổng thầu EPC, đóng mới tàu biển, ô tô chở khách, chế tạo nhiều thiết bị cung cấp cho các dự án lớn về thủy điện, xi măng, giấy… Những kết quả đạt được của ngành Cơ khí đã góp phần tích cực vào sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội và đẩy mạnh CNH-HĐH đất nước".
Có được những thành tựu trên, trước hết nhờ có định hướng đúng đắn của Đảng "Cơ khí là một ngành công nghiệp nền tảng, có vai trò đặc biệt quan trọng phát triển kinh tế- xã hội, đảm bảo độc lập tự chủ về kinh tế, củng cố an ninh quốc phòng, góp phần nâng cao đời sống nhân dân" 2và đã được cụ thể hóa bằng Chiến lược phát triển ngành cơ khí Việt Nam đến năm 2010, tầm nhìn tới năm 2020 được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt tại Quyết định số 186/2002/QĐ-TTg ngày 26 tháng 12 năm 2002.
Để thực hiện Chiến lược phát triển ngành công nghiệp cơ khí, công tác đầu tư nghiên cứu khoa học và công nghệ đã được coi trọng. Chỉ điểm qua một số lĩnh vực với một số thành tựu quan trọng được tạo ra từ một số Viện nghiên cứu R&D của Bộ Công Thương giai đoạn 2006-2010, đủ minh chứng cho vai trò của khoa học và công nghệ đóng góp vào các kết quả đã đạt được của ngành cơ khí:
1. Đối với lĩnh vực thiết kế chế tạo các hệ thống thiết bị toàn bộ
Viện Nghiên cứu cơ khí (NARIME), sau nhiều năm nghiên cứu đã làm chủ được thiết kế, chế tạo các thiết bị cơ khí thủy công và đã tham gia nhiều hợp đồng tư vấn và cung cấp thiết bị cho các nhà máy thủy điện: Thủy điện Sơn La, A Vương, Buôn Kuốp, Bản Vẽ, Bản Chát… Giai đoạn vừa qua hoạt động này ở NARIME rất phong phú, đa dạng, mang lại hiệu quả kinh tế rất lớn. Hầu hết các hợp đồng kinh tế lớn nhỏ đều có dấu ấn của công tác nghiên cứu khoa học và công nghệ ở các mức độ khác nhau. Các công trình cơ khí thủy công cho các nhà máy thủy điện, thiết bị xi măng lò quay, nhiệt điện nhỏ dùng trên hải đảo và nhiệt điện than 600MW, giàn khoan dầu khí tự nâng 60m nước và đặc biệt là hợp đồng tư vấn thiết kế Dự án Bôxít nhôm và nhiều hợp đồng kinh tế khác thực chất là áp dụng các kết quả nghiên cứu khoa học công nghệ vào các hoạt động kinh tế cụ thể, đã mang lịa cho Viện hiệu quả cao trên nhiều mặt. Nhiều hợp đồng lớn với doanh số trên chục triệu USD như: Dự án nhiệt điện than công suất nhỏ 6MW ở hải đảo Lý Sơn - Quảng Ngãi, dự án Bôxít nhôm Tân Rai và Nhân Cơ, hệ thống lọc bụi nhà máy nhiệt điện than 600MW Vũng Áng… trong đó tỷ trọng đóng góp từ khoa học công nghệ rất lớn. Hàng năm, doanh thu từ các hoạt động này chiếm tỷ lệ rất cao trong doanh thu của Viện. Như vậy, vai trò KHCN đối với sự tồn tại và phát triển của Viện đã được khẳng định.
Viện đã được giao và thực hiện có kết quả nhiều đề tài các cấp: Đã thực hiện 08 đề tài Nhà nước thuộc 04 Chương trình/Dự án trọng điểm, Dự án độc lập; Hàng năm thực hiện khoảng 15 đề tài/nhiệm vụ cấp Bộ Công Thương và 03 đề tài cấp Thành phố Hà Nội. Nhiều đề tài cấp Nhà nước, được thực hiện trong "Dự án nội địa hóa nhà máy xi măng lò quay 2.500 tấn clanhke/ngày" áp dụng trong Dự án nhà máy xi măng Sông Thao, Phú Thọ; Đề tài Điều khiển tự động nhà máy thủy điện Đắc Nông, Tây Nguyên trong "Dự án nghiên cứu thiết kế chế tạo và vận hành nhà máy Thủy điện công suất 20MW". Kết quả việc thực hiện các đề tài này đã tạo điều kiện để Viện bước đầu đã làm chủ các công việc trước đây phải thuê nước ngoài, tăng tỷ lệ nội địa hóa, góp phần giảm ngoại tệ nhập khẩu, tạo việc làm trong nước, phát triển ngành cơ khí. Đặc biệt các đề tài này đều có địa chỉ áp dụng cụ thể, nâng cao hiệu quả đầu tư KHCN. Nhiều đề tài tham gia tích cực trong việc kiểm soát, đánh giá và giảm thiểu ô nhiễm môi trường như "Thiết bị nạo vét sông thải đã kè bờ", "Kiểm soát đánh giá ô nhiễm khí thải một số ngành công nghiệp". Nhiều đề tài cấp Bộ triển khai đã tạo điều kiện hỗ trợ nghiên cứu tính toán thiết kế chế tạo cho nhiều hợp đồng kinh tế của nhiều lĩnh vực phục hồi, chế tạo phụ tùng, thiết bị mới trong các ngành công nghiệp khai khoáng, nhiệt điện, xi măng, thủy điện, hóa chất, vật liệu xây dựng. Các hoạt động này hầu hết đều đạt hiệu quả kinh tế tốt, đáp ứng yêu cầu nền kinh tế xã hội và được khách hàng đánh giá tốt.
Ngoài ra, trong năm 2009 Viện đã nghiên cứu và chế tạo thành công thiết bị hút bùn theo nguyên lý mới, mở ra khả năng ứng dụng rộng rãi trong công nghiệp môi trường trong cả nước, giảm ngoại tệ nhập khẩu. Sản phẩm của đề tài đã được đánh giá cao và mang về cho Viện giải Nhì giải thưởng Vifotec năm 2009.
2. Đối với lĩnh vực nghiên cứu thiết kế chế tạo các thiết bị cơ - điện tử:
Phát huy kết quả thực hiện giai đoạn 5 năm 2001-2005 với dấu mốc quan trọng là giải thưởng Hồ Chí Minh về khoa học và công nghệ cho cụm 51 sản phẩm cơ điện tử do viện nghiên cứu thiết kế và chế tạo, giai đoạn 2006-2010 viện Máy và Dụng cụ công nghiệp (IMI) đã triển khai nghiên cứu và đưa vào sản xuất hàng loạt thiết bị cơ - điện tử có chất lượng và khả năng cạnh tranh; tiếp tục hoàn thiện nâng cao tính năng và tiện nghi đối với các thiết bị đã được sản xuất hàng loạt và cung cấp cho thị trường.
Hiện nay Viện IMI là tổ chức khoa học công nghệ đầu tiên ở Việt Nam đã thành công trong việc chuyển đổi nội dung nghiên cứu từ cơ khí thuần túy sang Mechatronics. Trên cơ sở hoạt động có hiệu quả của các trung tâm nghiên cứu ứng dụng, nhiều sản phẩm Mechatronics với năng lực nội sinh từ 50-90% đã được thị trường chấp nhận, trở thành hàng hóa. khi đó nhu cầu đầu tư ra bên ngoài để thành lập các công ty trở nên cấp thiết đối với Viện IMI để chuyển giao công nghệ và tiến hành sản xuất công nghiệp.
Trong những năm qua, Viện IMI đã nghiên cứu và ứng dụng thành công vào thị trường gần 30 sản phẩm khoa học công nghệ cao có khả năng cạnh tranh. Những sản phẩm này đã đem lại hiệu quả kinh tế cao cho Viện IMI với số liệu tăng trưởng về tổng giá trị hoạt động ứng dụng khoa học công nghệ vào sản xuất hàng năm: năm 1995 giá trị doanh thu chi 26,5 tỷ, đến năm 2010 Viện IMI và các công ty thành viên đạt xấp xỉ 1000 tỷ đồng.
Hiện nay, Viện đang đẩy mạnh triển khai hoạt động ứng dụng các kết quả nghiên cứu khoa học công nghệ vào sản xuất kinh doanh theo định hướng phát triển đã được hoạch định nhằm tạo ra nhiều sản phẩm đột phá đáp ứng nhu cầu thị trường trong nước và tiến tới xuất khẩu.
3. Trong lĩnh vực cơ khí nông nghiệp phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa - hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn
Việc Nghiên cứu thiết kế chế tạo máy nông nghiệp (RIAM) đã cho ra đời hàng loạt thiết bị phục vụ sản xuất thức ăn chăn nuôi gia súc, gia cầm, thủy sản; Các thiết bị trong lĩnh vực sấy với công nghệ đặc trưng phục vụ sản xuất thức ăn cao cấp để xuất khẩu. Đặc biệt, trong giai đoạn 2006-2010, Viện Nghiên cứu thiết kế và chế tạo máy nông nghiệp đã làm chủ hoàn toàn việc thiết kế, công nghệ chế tạo và sản xuất hàng loạt các hệ thống thiết bị chế biến tinh bột sắn với các gam công suất khác nhau, trình độ tự động hóa sản xuất ngày càng cao, trong đó vấn đề xử lý ô nhiễm môi trường đã được nghiên cứu và đưa vào ứng dụng, giải quyết vấn đề hóc búa trong đầu tư các nhà máy chế biến tinh bột sắn tại địa phương. Với mức độ hoàn thiện của sản phẩm, hệ thống thiết bị chế biến tinh bột sắn đầu tiên đã được sản xuất tại và xuất khẩu sang nước Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào và đã phát huy tác dụng tốt không chỉ có ý nghĩa về mặt kinh tế mà còn tạo ra uy tín đối với bạn trong việc hợp tác kinh tế - kỹ thuật từ đó góp phần nâng cao tình hữu nghị giữa hai nước.
4. Trong lĩnh vực công nghiệp sản xuất vật liệu xây dựng và góp phần giảm thiểu ô nhiễm môi trường
Viện Công nghệ đã đưa ra thị trường dây chuyền chế tạo tấm lợp phibroximang không amiang. Vấn đề có thể gây tác động nguy hại đến sức khỏe con người trong quá trình sử dụng mang đến từ loại vật liệu amiang có trong các tấm lợp phibroximăng trước đây đã được nhiều nước trên thế giới biết đến và trong những năm gần đây, loại vật liệu này đã bị cấm sử dụng tại nhiều nước trên thế giới. Tuy nhiên, amiăng lại là loại vật liệu có chức năng liên kết và đảm bảo tính công nghệ chế tạo loại sản phẩm này. Thay thế amiăng bằng loại vật liệu gì, thay đổi công nghệ và kèm theo là các thiết bị sản xuất theo hướng như thế nào là những bài toán khó.
Trong hoàn cảnh nguồn lực cho nghiên cứu phát triển còn có hạn chế (kể cả về nguồn tài chính, nguồn nhân lực, cơ sở hạ tầng, các phòng thí nghiệm…) thì việc lựa chọn trong từng giai đoạn các vấn đề cần có sự tập trung của KH&CN để nghiên cứu giải quyết triệt để các nội dung và quan trọng là các kết quả của nó phải đi vào được đời sống kinh tế xã hội, mang lại hiệu quả cao cả về mặt kinh tế cũng như KH&CN. Trong thời gian tới vấn đề này cần phải được xem xét .
Tóm lại, như nhiều lĩnh vực khác của toàn ngành kinh tế quốc dân, nghiên cứu khoa học và công nghệ có vai trò rất quan trọng đối với sự phát triển ngành công nghiệp cơ khí, góp phần mang lại những kết quả tích cực cho sự phát triển ngành trong những năm qua. Tuy nhiên, cơ khí là ngành công nghiệp nền tảng và nó có mặt trong hầu hết các lĩnh vực và hiện đang được quản lý bởi nhiều Bộ, Ngành. Muốn ngành cơ khí phát triển mạnh hơn, bền vững hơn, cần thiết phải có sự chỉ đạo tập trung, thống nhất với định hướng rõ hơn, cần có sự tập trung từ khâu đầu tư, nghiên cứu khoa học, tạo thị trường, xúc tiến thương mại, đào tạo nguồn nhân lực cũng như phát triển công nghiệp phụ trợ, từ đó mới có thể thúc đẩy ngành công nghiệp cơ khí trên cả nước phát triển mạnh mẽ, đồng bộ, góp phần quan trọng vào sự nghiệp công nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước.
C hú thích:
1. Báo cáo của Bộ Công thương tại cuộc họp Ban chỉ đạo sản phẩm cơ khí trọng điểm ngày 14/4/2010;
2. Kết luận số 25/KL-TW ngày 17/10/2003 của Bộ Chính trị Trung ương Đảng CSVN.
3. Cho đến nay đã có 21 Viện thuộc diện chuyển đổi theo NDD115, trong đó có 7 viện thuộc Bộ và 14 viện trực thuộc các Tập đoàn, Tcty đã hoàn thành việc chuyển đổi.
4. "Chỉ nghiên cứu chỉ chiếm một phần nhỏ" - Nguyễn Quân - TT. Bộ KH&CN.








