Ứng dụng khoa học kỹ thuật vào canh tác mía trên đất gò đồi ở huyện Ba Tơ
Thực trạng sản xuất mía ở xã Ba Tô và Ba Dinh
Xã Ba Tô và xã Ba Dinh thuộc huyện Ba Tơ, có diện tích tự nhiên khoảng 14.887,28ha. 2 nhóm đất chính ở Ba Tô và Ba Dinh là đất xám và đất phù sa sẽ thích hợp để phát triển sản xuất các loại cây trồng nông nghiệp khác nhau, trong đó có cây mía. Tuy nhiên, do nằm trên vùng núi cao và có độ dốc lớn nên thường bị rửa trôi, xói mòn mạnh làm ảnh hưởng đến quá trình sản xuất.
Theo kết quả thống kê của Nhà máy Đường Phổ Phong - Công ty cổ phần đường Quảng Ngãi (năm 2010), năng suất mía ở xã Ba Tô tăng từ 45,9 tấn/ha trong năm 2007 lên 50,0 tấn/ha trong năm 2008. Tuy nhiên, từ năm 2008 đến năm 2010, năng suất mía giảm từ 50,0 tấn/ha xuống còn 28,6 tấn/ha (giảm 74,8%). Bên cạnh năng suất, hàm lượng đường giảm từ 9,1% trong năm 2007 xuống còn 8,4% trong năm 2009 và lên 8,8% trong năm 2010.
Tương tự, tại xã Ba Dinh, tuy mức độ suy giảm năng suất không đột biến như xã Ba Tô, nhưng năng suất mía cũng giảm dần từ 44,6 tấn/ha trong năm 2007 xuống còn 29,9 tấn/ha trong năm 2010 (giảm 49,2%). Ngoài ra, hàm lượng đường cũng giảm từ 9,2% trong năm 2007 xuống còn 8,4% trong năm 2009 và tăng lên 9,0% trong vụ thu hoạch năm 2010.
Như vậy, từ năm 2007 đến năm 2010, năng suất và hàm lượng đường trong mía của xã Ba Tô và Ba Dinh có xu thế giảm dần trong các năm gần đây. Nếu theo mục tiêu phát triển vùng nguyên liệu mía của tỉnh Quảng Ngãi trong thời gian đến thì năng suất của vùng nghiên cứu chỉ mới đạt khoảng 50% (mục tiêu cần đạt là 60,0 tấn/ha) và hàm lượng đường vẫn còn thấp hơn (mục tiêu cần đạt là 10%).
Như vậy, qua phân tích và đánh giá đặc điểm hóa tính đã cho thấy: Độ chua trao đổi (pHKCI) và hàm lượng dinh dưỡng khoáng đa lượng thấp của đất canh tác là yếu tố làm hạn chế năng suất và chất lượng mía ở xã Ba Tô và Ba Dinh. Nguyên nhân chủ yếu là do phương thức canh tác, làm đất chủ yếu bằng cuốc thủ công, không đảm bảo qui trình, không bón phân bổ sung và đất dốc bị xói mòn, rửa trôi dinh dưỡng, tầng đất mặt sau nhiều năm canh tác bị chai cứng. Đó là nguyên nhân cơ bản làm cho năng suất, chất lượng mía giảm đáng kể.
Trước thực trạng đó, Nhà máy đường Phổ Phong đã thực hiện dự án “Hỗ trợ xây dựng mô hình thâm canh tăng năng suất, chất lượng mía trên đất gò đồi huyện Ba Tơ theo hướng sản xuất bền vững" với quy mô 600 ha ở 2 xã Ba Dinh và Ba Tô
Áp dụng KHKT vào canh tác mía.
Các giải pháp KHKT đã được Nhà máy Đường Phổ Phong triển khai đồng bộ nhằm hạn chế tình trạng xói mòn, thoái hóa đất, cụ thể là:
Về kỹ thuật làm đất, đốivới những vùng gò đồi có độ dốc từ 0° đến dưới 8°, kỹ thuật làm đất được áp dụng là sử dụng máy kéo MTZ892 và máy nông nghiệp thực hiện như sau: cày phá lâm 3 chảo 720 mm, cày sâu 25-30 cm; cày 7 chảo 660 mm, cày sâu 25-30 cm; bừa offset 24 chảo, bừa sâu 15 - 20 cm.
Kỹ thuật trồng: máy kéo MTZ 892 cày rạch theo hàng đường đồng mức (hàng trồng vuông góc với hướng dốc), khoảng cách hàng 0,9 - 1,0 m.
Còn đối với những vùng đồi có độ dốc từ 8-150, kỹ thuật làm đất được áp dụng là dùng máy đào komatsu 95HP có gàu múc 0,3m3 để đào rãnh tạo thành tiểu bậc thang có đường băng rộng 80cm theo trình tự giựt cấp từ trên cao xuống, bảo đảm độ sâu đạt 40 cm và hoàn trả đất màu có độ tơi xốp đất dày 25-30 cm cho tầng kế tiếp.
Kỹ thuật trồng: Dùng cuốc vét rãnh giữa tâm đường băng sâu 25 - 30cm, mỗi tiểu bậc thang trồng 1 hàng mía, cách nhau 1 m.
Đồng thời, bón vôi kết hợp với lân để cải tạo đất với liều lượng phân bón đầu tư cho 1 ha là: 750 kg phân hữu cơ vi sinh, 1.000 kg vôi bột (hàm lượng > 80 CaO), 700 kg NPK 18-10-16, 140 kg lân Văn Điển. Phương thức bón: Trước khi vét rãnh bón 1.000 kg vôi bột trên bề mặt tiểu bậc thang. Bón lót theo rãnh đã vét trước khi trồng 750kg phân hữu CO VI sinh, 300 kg/ha phân NPK 18-10-16 và 140 kg/ha phân lân, kết hợp thuốc trừ sâu (trộn đều thuốc trừ sâu với phân vô cơ theo tỷ lệ bón 1 - 1,5 kg/sào). Khi mía bắt đầu vươn lóng (sau khi trồng 80-90 ngày) tiến hành làm cỏ và bón lượng phân NPK 18-10-16 còn lại.
Giống mía mới ROC27 và K88-92 được đưa vào thay thế cho giống cũ MY55-14.
Ngoài ra, còn tăng cường. biện pháp canh tác tổng hợp trong phòng trừ sâu, bệnh hại và hạn chế đổ ngã (vun gốc, làm cỏ, phòng trừ sâu, bệnh, bóc lá chân...)
Nhờ thực hiện các biện pháp canh tác mía theo phương thức mới, đã hạn chế được tình trạng xói mòn, rửa trôi đất, cây mía hấp thu được đất chất dinh dưỡng nên sinh trưởng tốt, vươn lóng nhanh.
Kết quả khả quan...
Sau hai năm triển khai, dự án đạt được kết quả như sau:
Vụ mía 2010 - 2011: Đã trồng mới được 135,6 ha; trong đó, mô hình thâm canh mía theo phương thức tiểu bậc thang là 119,9 ha; mô hình thâm canh mía theo đường đồng mức là 15,7 ha. Năng suất mía đạt 65,3 tân/ha, sản lượng 8.861 tấn. Chữ đường (CCS): 9,91%. Doanh thu khoảng 64 - 68 triệu đồng/ha. Lãi thuần 30-35 triệu đồng/ha.
Vụ mía 2011 - 2012: Đã trồng mới được 247,1 ha. Trong đó: Mô hình trồng thâm canh mía theo phương thức tiểu bậc thang là 242,8 ha. Năng suất mía đạt 67,2 tân/ha. Sản lượng đạt 16.328,7 tấn. CCS: 9,93%. Doanh thu khoảng 63 triệu đồng/ha. lai thuần khoảng 33 triệu đồng/ ha. Mô hình thâm canh mía theo đường đồng mức 4,27 ha. Năng suất mía đạt 70,2 tấn/ha. Sản lượng đạt 299,6 tấn. CCS: 9,95% doanh thu khoảng 66 triệu đồng/ha, lãi thuần khoảng 34 triệu đồng/ha.
Ngoài ra, dự án còn tiến hành chăm sóc 135,6645 ha mía gốc 1, với các biện pháp chăm sóc như dọn đất, đốt tàn dư vun gốc, bón vôi, phân... Nhờ đó năng suất mía gốc đạt 69,4 tấn/ha. Sản lượng đạt 9.421,5 tấn/ha.CCS là 9,92 %. Doanh thu khoảng 66 triệu đồng/ha, lãi thuần khoảng 36 triệu đồng/ ha.
Bên cạnh hiệu quả kinh tế, dự án còn góp phần đáng kể trong việc cải tạo đất, hạn chế tình trạng rửa trôi, xói mòn; góp phần giải quyết lao động nhàn rỗi ở nông thôn; nâng cao nhận thức của người dân trong vùng về việc ứng dụng các tiến bộ kỹ thuật vào canh tác mía như biết cách bón vôi, bón phân hợp lý, chăm sóc mía, vệ sinh đồng ruộng... từng bước xóa bỏ tập quán canh tác lạc hậu...
Đến nay, dự án đã thu hút được sự quan tâm của đông đảo người dân trồng mía, nhiều hộ dân đã tham gia mở rộng diện tích trồng mới lên đến 382,8 ha, thậm chí có hộ tự bỏ vốn để mua đất trồng mía theo phương pháp canh tác mới cho dù không được dự án hỗ trợ. Nhờ đó, mô hình trồng mía theo phương pháp mới đã được nhân rộng ra các xã Ba Chùa, Ba Vì, Ba Tiêu...Có thể thấy rằng, sức lan tỏa của dự án là rất lớn, đã nhận được sự hưởng ứng mạnh mẽ của đồng bào thiểu số nơi đây.
Ông Tạ Công Tường, Phó Giám đốc Nhà máy Đường Phổ Phong cho biết: Với kết quả đạt được, dự án đã đáp ứng mục tiêu đề ra. Qua theo dõi, năng suất vụ mía năm đầu tiên đạt trên 65 tấn/ha;năng suất mía tơ và mía gốc năm thứ hai đạt 69 tấn/ha. Như vậy, năng suất mía qua thu hoạch 2 năm bình quân đạt 68 tấn/ha, chữ đường cũng được tăng lên đáng kể. Với giá mía hiện nay, doanh thu từ 1 ha mía đạt 68 triệu đồng, sau khi trừ chi phí, người dân lãi thuần từ 36 - 39 triệu đồng/ha. Bên cạnh hiệu quả kinh tế, dự án đã chuyển giao giải pháp khoa học kỹ thuật mới trong canh tác mía cho bà con nông dân, giúp thay đổi tập quán canh tác mía lạc hậu trước đây. Người dân được tiếp nhận công nghệ mới, đó là dùng máy đào làm đất theo đường tiểu bậc thang. Hiện nay kỹ thuật làm đất này đã được lan tỏa rộng, không chỉ trên địa bàn huyện Ba Tơ mà còn ở các huyện Sơn Hà, Nghĩa Hành, Đức Phổ . Có thể khẳng định rằng, đây là thành công rất lớn đối với việc phát triển vùng nguyên liệu mía theo hướng tập trung chuyển canh, đáp ứng yêu cầu của nhà nước về việc chuyển giao khoa học kỹ thuật cho đồng bào dân tộc thiểu số ở miền núi theo chương trình phát triển nông thôn mới.
Dự án thành công đã góp phần khai thác có hiệu quả tài nguyên và đất đai còn khá dồi dào ở huyện Ba Tơ, góp phần xóa đói giảm nghèo bền vững cho đồng bào dân tộc thiểu số của huyện Bạ Tơ, đồng thời tiến tới xây dựng nông thôn mới theo tính thần Nghị quyết TW26 về nông nghiệp, nông dân và nông thôn.








