Tư duy lý luận của Đảng về phát triển dịch vụ xã hội trong công cuộc đổi mới
1. Trong công cuộc đổi mới toàn diện đất nước, dịch vụ xã hội từng bước được đổi mới và có cách tiếp cận khác với thời kỳ duy trì mô hình kinh tế "công hữu, kế hoạch hóa, phi thị trường". Nghị quyết các Đại hội VI (12 - 1986), VII (6-1991), VIII (6-1996), IX (4-2001), X (4-2006) đã tạo khung khổ thể chế lãnh đạo cho đổi mới quản lý và phát triển dịch vụ xã hội, sau đó được cụ thể hóa bằng các nghị quyết chuyên đề. Đó là các văn kiện: Nghị quyết HNTƯ 4 khóa VII (1-1993) Về tiếp tục đổi mới sự nghiệp giáo dục và đào tạo; Về những vấn đề cấp bách của sự nghiệp chăm sóc và bảo vệ sức khỏe của nhân dân; Về một số nhiệm vụ văn hóa, văn nghệ những năm trước mắt; Nghị quyết HNTƯ 2 khóa VIII (12-1996) Về phát triển giáo dục và đào tạo, Nghị quyết HNTƯ 5 khóa VIII (7-1998) Về xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; Kết luận của HNTƯ 6 khóa IX Về tiếp tục thực hiện Nghị quyết Trung ương hai khóa VIII về phát triển giáo dục và đào tạo; Nghị quyết số 46/NQ-TW của Bộ Chính trị về công tác bảo vệ, chăm sóc sức khỏe nhân dân trong tình hình mới (2005); Kết luận của HNTƯ 10 khóa IX về tiếp tục thực hiện Nghị quyết HNTƯ 5 khóa VIII (2005) Về xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc… Các văn kiện nêu trên đã tạo khung khổ thể chế cho mở rộng quy mô, nâng cao chất lượng, chuyển đổi mô hình tổ chức cung ứng và hội nhập quốc tế của dịch vụ xã hội nước ta. Những nội dung đó thể hiện ở các bước chuyển sau đây:
Một là:Chuyển từ chỗ xem giáo dục - đào tạo, khoa học - công nghệ, y tế, văn hóa - nghệ thuật, thể dục - thể thao là những phân hệ thuộc lĩnh vực văn hóa - xã hội có vị trí độc lập với kinh tế sang đặt chúng vận hành trong quan hệ thị trường, chịu điều tiết của thị trường, có quan hệ tương tác với các lĩnh vực khác của nền kinh tế dịch vụ và tổng thể đời sống đất nước. Đến trước Đại hội X (4-2006), các nghị quyết của Đảng vẫn chưa sử dụng khái niệm dịch vụkhi xem xét quan hệ giữa chủ thể cung ứng và đối tượng tiêu dùng sản phẩm của giáo dục, y tế, văn hóa - nghệ thuật, thể dục - thể thao, dù trên thực tế đã thừa nhận quan hệ không đầy đủ của chúng với thị trường. Nghị quyết HNTƯ 7 khóa VIII (8-1999) lần đầu tiên nêu khái niệm dịch vụ công, nhưng chỉ giới hạn ở dịch vụ hành chính công. "Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 2001 - 2010" do Đại hội IX (4-2001) thông qua khi nêu định hướng phát triển các ngành dịch vụthì vẫn chỉ giới hạn các ngành dịch vụ kinh tế. Tuy vậy, văn kiện này cũng đã bước đầu gợi mở các yếu tố cho sự định hình cách tiếp cận dịch vụ xã hội: "Phát triển mạnh các dịch vụ kỹ thuật, dịch vụ tư vấn sản xuất, kinh doanh và đời sống xã hội". Đại hội X (4-2006) có quan điểm rõ ràng khi chuyển mô hình phát triển giáo dục - đào tạo, y tế, văn hóa - nghệ thuật, thể dục - thể thao từ cách tiếp cận phúc lợi công cộngsang dịch vụ xã hội. Nghị quyết Đại hội X nhấn mạnh: "Phát triển các dịch vụ pháp luật, kiểm toán, bảo hiểm, khoa học và công nghệ, giáo dục và đào tạo, y tế, văn hóa, thông tin, thể thao; tăng và nâng cao chất lượng dịch vụ việc làm, an sinh xã hội". Điều đặc biệt là Đại hội X của Đảng đã xem giáo dục và đào tạo, y tế, khoa học và công nghệ, văn hóa, thể dục, thể thao là dịch vụ công cộng. Sự xác lập khái niệm dịch vụ ở đây nằm trong quá trình cấu trúc lại chức năng của Nhà nước từ nhà nước quản trịsang kết hợp giữa nhà nước quản trịvà nhà nước dịch vụ.
Hai là: Chuyển từ việc xem phát triển dịch vụ xã hội nhằm mở rộng phúc lợi phi thu nhập sang quan niệm đầu tư cho phát triển vốn con người - cơ sở trước hết cho việc đưa giáo dục - đào tạo, y tế, văn hóa - nghệ thuật, thể dục - thể thao, khoa học - công nghệ vận hành theo cơ chế "dịch vụ". Các quan điểm thường được nhấn mạnh trong văn kiện Đảng là: Giáo dục và đào tạo cùng với khoa học và công nghệ là quốc sách hàng đầu, phát triển văn hóa là nền tảng tinh thần cho xã hội, sức khỏe là vốn quý của nhân dân. Nghị quyết HNTƯ 4 khóa VII (1993) bắt đầu nêu quan điểm này bằng nhấn mạnh "coi đầu tư cho giáo dục là một trong những hướng chính của đầu tư phát triển". Đầu tư cho giáo dục - đào tạo chính là một yếu tố "đầu vào" của chu trình sản xuất, đảm bảo cho nguồn nhân lực chuyển hóa thành vốn nhân lực, nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế từ tăng trưởng theo chiều rộng sang dần tăng trưởng theo chiều sâu dựa trên chất lượng vốn nhân lực và trình độ khoa học - công nghệ. Hoặc phát triển y tế cũng được nhận thức không chỉ nhằm nâng cao sức khỏe để sống có ích, kéo dài tuổi thọ, mà còn đảm bảo sức khỏe thể chất và sức khỏe thần kinhcủa lao động trong các quá trình sản xuất. Phát triển thể dục - thể thao cũng đóng góp vào nâng cao sức khỏe của con người, đảm bảo nguồn nhân lực trưởng thành. Phát triển văn hóa - nghệ thuật cũng hướng tới mục tiêu không chỉ nâng cao mức độ thụ hưởng giá trị tinh thần, mà còn phát triển xã hội lành mạnh, con người sống có nhân cách, văn hóa, giá trị thẩm mỹ - một yếu tố cấu thành chất lượng của nguồn nhân lực và góp phần vào tăng cường năng lực cạnh tranh quốc gia. So với các lĩnh vực khác, khoa học - công nghệ có vai trò trực tiếp đối với việc tăng năng suất, chất lượng sản xuất, nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế, nên mức độ thị trường hóacòn được đặt cao hơn các loại hình dịch vụ xã hội khác.
Tuy nhiên, trong khi chuyển dần quan niệm phát triển dịch vụ xã hội từ chiều cạnh phúc lợi xã hộisang chiều cạnh đầu tư phát triểnthì Đảng vẫn xem phát triển dịch vụ xã hội vì con người, giải quyết hài hòa mối quan hệ giữa mục tiêuvà phương tiệnkhi phát triển con người. Được chăm sóc sức khỏe, được học hành, được sống có văn hóa, đạo lý là những quyền con người cơ bản trong thế giới văn minh. Đầu tư cho lĩnh vực dịch vụ xã hội không chỉ nhằm tạo một yếu tố "đầu vào" với tư cách là phương tiện của quá trình tăng trưởng kinh tế, mà bản thân nó còn nhằm nâng cao mức sống, chất lượng sốngcủa con người nhờ vốn hiểu biết được nâng cao, sức khỏe thể chất và sức khỏe thần kinh được đảm bảo, môi trường văn hóa được cải thiện. Sự phát triển của con người sẽ góp phần duy trì xã hội trong trật tự kỷ cương, lành mạnh, hạn chế các vấn nạn xã hội hoặc sức ỳ đối với nền kinh tế và xã hội do thất học, tật bệnh, đạo đức suy đồi, văn hóa thấp kém.
Ba là:Chuyển từ chủ nghĩa bình quân trong phân phối các sản phẩm dịch vụ xã hội sang kết hợp giữa thực hiện công bằng trong thụ hưởng dịch vụ xã hội với tôn trọng nhu cầu của bộ phận nhân dân có thu nhập cao; giữa đáp ứng các nhu cầu dịch vụ xã hội cơ bản, thiết yếu mang tính công cộng với nhu cầu dịch vụ xã hội cá nhân tùy theo khả năng chi trả, tuân theo quan hệ thị trường.Điều đó được đảm bảo bằng các nguyên tắc công bằng trong giáo dục, Nhà nước đáp ứng các dịch vụ giáo dục cơ bản, thiết yếu, đầu tư vùng sâu, vùng xa, vùng nghèo, các đối tượng chính sách, giúp những đối tượng này có cơ hội tiếp cận dịch vụ giáo dục; Nhà nước đóng vai trò chủ đạo trong cung ứng dịch vụ y tế, thực hiện bảo hiểm y tế nhằm chia sẻ trách nhiệm xã hội giữa người khỏe mạnh và người tật bệnh; cung cấp miễn phí dịch vụ phát thanh, truyền hình, nghiên cứu cơ bản… Đồng thời, cho phép hình thành các dịch vụ xã hội chi trả theo khả năng nhằm đáp ứng nhu cầu xã hội ngày càng phân hóa. Điều này phản ánh sự vận dụng hợp lý quy luật thị trường vào quá trình phát triển dịch vụ xã hội, đồng thời khẳng định đặc thù của dịch vụ xã hội thiết yếu, cơ bản gắn với trách nhiệm Nhà nước.
Bốn là:Chuyển từ chỗ xem Nhà nước là chủ thể duy nhất hoạch định chính sách, tổ chức cung ứng dịch vụ và chi trả phí sang đa dạng hóa các chủ thể tham gia. Đây là một nội dung trọng yếu của xã hội hóa mà các nghị quyết của Đảng thường nhấn mạnh. Về hoạch định chính sách, từ chỗ Nhà nước áp đặt cách làm cho các đơn vị cung ứng dịch vụ sang thu hút sự tham gia của người tiêu dùng dịch vụ khi xây dựng chính sách, giao quyền tự chủ cho các đơn vị cung ứng dịch vụ khi xây dựng chiến lược, phương hướng hoạt động, tổ chức nhân sự. Về tổ chức cung ứng, từ chỗ Nhà nước độc quyền cung ứng dịch vụ xã hội sang thu hút sự tham gia của tư nhân, của các tổ chức xã hội, gia đình, tạo sự cạnh tranh trong khu vực công và giữa khu vực công với khu vực tư khi phát triển dịch vụ xã hội. Tạo cơ sở cho đổi mới này, Đại hội IX yêu cầu: "Tách cơ quan hành chính công quyền với tổ chức sự nghiệp. Khuyến khích và hỗ trơ các tổ chức hoạt động không vì lợi nhuận mà vì nhu cầu và lợi ích của nhân dân; tạo điều kiện thuận lợi cho các tổ chức thực hiện một số dịch vụ công với sự giám sát của cộng đồng". Về chi trả phí, từ chỗ Nhà nước chi trả toàn bộ phí theo nguyên tắc bình quân, cào bằng, sang linh hoạt hơn trong cơ chế chi trả phí tùy theo tính thuần công( Nhà nước trả toàn phần), á công(Nhà nước trả một phần) hay cá nhân(tư nhân tự chi trả theo quan hệ thị trường) của dịch vụ xã hội.
Năm là:Các chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của Đảng luôn nhấn mạnh đến khía cạnh đạo lý, nhân văn của dịch vụ xã hội nên không thuần túy chạy theo thị trường, không đồng nhất giữa xã hội hóa với thương mại hóa dịch vụ xã hội. Vận dụng quy luật thị trường vào phát triển dịch vụ xã hội thực chất là vận dụng không hoàn hảo, phải chấp nhận sự điều tiết bởi hệ giá trị xã hội, đạo lý truyền thống. Đó cũng là lý do cắt nghĩa trong các chủ trương phát triển dịch vụ giáo dục luôn nhấn mạnh đến đạo đức người thầy và nhân cách học trò; trong phát triển dịch vụ y tế luôn nhấn mạnh đến y đức người thầy thuốc; trong tổ chức lễ hội truyền thống luôn phê phán các khuynh hướng thị trường hóa làm mất đi cái thiêngcấu thành bản sắc văn hóa.
Sáu là: Chuyển từ hệ thống dịch vụ xã hội khép kín sang hệ thống dịch vụ xã hội mở, hội nhập với thế giới, chấp nhận cạnh tranh. Trước khi gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO), các hợp tác quốc tế về giáo dục-đào tạo, y tế, thể dục- thể thao, khoa học - công nghệ, văn hóa - nghệ thuật đã diễn ra nhưng chưa gắn với quan hệ thị trường. Việc ký kết Hiệp định Thương mại Việt-Mỹ (2001), đặc biệt là từ khi gia nhập WTO, đã mở ra khả năng mới cho xuất khẩu dịch vụ xã hội của nước ta và nhập khẩu dịch vụ xã hội của nước ta và nhập khẩu dịch vụ xã hội từ các nước vào phục vụ nhu cầu nhân dân ta, trong đó nhập khẩu dịch vụ giáo dục và dịch vụ y tế luôn là chủ đề "nóng" nhất.
2. Bên cạnh những chuyển biến về tư duy lý luận của Đảng, vẫn còn nhiều vấn đề cần phải được tiếp tục nghiên cứu trong thời gian tới.
Một là: Trong nhiều nghị quyết của Đảng, phát triển dịch vụ xã hội được đề cập ở nhiều phương diện khác nhau. Khi bàn về phát triển giáo dục - đào tạo, khoa học - công nghệ, thể dục - thể thao, chăm sóc sức khỏe…. với phương diện phúc lợi xã hội thường được kết cấu trong phân hệ - lĩnh vực văn hóa - xã hội. Khi bàn về cải cách, đổi mới cơ chế quản lý thường được đề cập gắn với cải cách tổ chức bộ máy nhà nước, chủ yếu là tách quản lý đơn vị sự nghiệp công ra khỏi quản lý hành chính nhà nước. Khi bàn dưới góc độ đổi mới thể chế kinh tế, có một số dịch vụ xã hội được gắn với phát triển đồng bộ các loại thị trường, cơ bản là dịch vụ khoa học - công nghệ. Khi bàn đến chính sách xã hội, một số vấn đề lại được kết cấu ở nội dung này, như dịch vụ trợ giúp xã hội, bảo hiểm xã hội,… Điều này dẫn tới những khó khăn cho nhận thức mang tính hệ thống về dịch vụ xã hội cũng như tạo nên các cách hiểu khác nhau về phát triển dịch vụ xã hội và đổi mới quản lý dịch vụ xã hội.
Hai là:Trong quá trình thực hiện xã hội hóa các dịch vụ xã hội chưa phân biệt thật rõ ranh giới giữa dịch vụ xã hội thuần công và dịch vụ xã hội không thuần công (á công). Vì vậy, có nơi, có lúc thực hiện xã hội hóa chưa đúng như mong đợi của Đảng và nhân dân. Hơn nữa, thiếu những văn bản hướng dẫn cụ thể hóa những nội dung, yêu cầu thực hiện xã hội hóa các dịch vụ xã hội, cho nên, nhiều nơi, nhiều lúc hiểu và tiến hành xã hội hóa chủ yếu ở huy động nguồn lực tài chínhmà không kèm theo xã hội hóa các hoạt động phi tài chính của quá trình quản lý phát triển dịch vụ xã hội.
Ba là:Chưa có sự phân biệt rõ ràng các cấp độ dịch vụ quốc gia, dịch vụ vùng, dịch vụ địa phương và dịch vụ cộng đồng. Vì vậy, gây khó khăn và chồng chéo trong quản lý dịch vụ, nhất là xác định trách nhiệm chính quyền trung ương và hiệp quản giữa các địa phương trong vùng, trách nhiệm của cộng đồng và khả năng phát huy vai trò cộng đồng trong cung ứng dịch vụ xã hội. Điều đó dẫn tới lúng túng trong quá trình phân cấp quản lý phát triển dịch vụ, địa phương đùn đẩy trách nhiệm lên Trung ương và Trung ương không bao quát hết các vấn đề quản lý phát triển dịch vụ xã hội cấp địa phương, sự hạn chế hệ thống dịch vụ xã hội cấp địa phương, sự hạn chế hệ thống dịch vụ xã hội cấp vùng khi các địa phương cạnh tranh nhau không lành mạnh.
Bốn là: chưa phân biệt thật rõ ràng ranh giới những dịch vụ xã hội hoạt động theo nguyên tắc phi lợi nhuận với những dịch vụ xã hội hoạt động theo nguyên tắc lợi nhuận, bị điều chỉnh bởi những đạo luật khác nhau (Luật Doanh nghiệp hoặc Luật tổ chức phi lợi nhuận). Điều này dẫn tới không ít đơn vị sự nghiệp ngoài công lập thực hiện kinh doanh như một doanh nghiệp nhưng lại ẩn nấp dưới hình thức đơn vị sự nghiệp phi lợi nhuận, gây tổn thất cho Nhà nước và cản trở người có thu nhập thấp tiếp cận các dịch vụ xã hội do khu vực ngoài công lập cung cấp. Đó là chưa kể đến, nhiều đơn vị sự nghiệp công lập dù hoạt động theo nguyên tắc phi lợi nhuận, thực hiện chức năng cung ứng dịch vụ miễn phí, nhưng vẫn tìm cách thu phí được "che đậy" dưới nhiều hình thức khác nhau, gây nhức nhối trong xã hội.
Năm là: Chưa xác định rõ ràng trách nhiệmvà giới hạncủa từng chủ thể tham gia phát triển dịch vụ xã hội (nhà nước, doanh nghiệp, xã hội) ở từng khâu: hoạch định chính sách, tổ chức cung ứng dịch vụ và chi trả phí dịch vụ, vì thể nhiều nơi đồng nhất ủy quyền cho tư nhân với tư nhân hóa, vừa làm giảm trách nhiệm của Nhà nước, vừa không phát huy được đúng nghĩa chức năng của khu vực ngoài nhà nước tham gia phát triển dịch vụ xã hội. Điều đó chưa phản ánh đúng bản chất của quá trình xã hội hóa dịch vụ xã hội.
Sáu là: Các tổ chức xã hội và khu vực dịch vụ xã hội truyền thốngchưa được nhìn nhận và phát huy đầy đủ trong cung ứng dịch vụ xã hội nhằm khắc phục các khuyết tật của thị trường giới hạn của Nhà nước. Thiếu những khung khổ pháp lý cần thiết dịch vụ xã hội, nhất là các dịch vụ xã hội hoạt động theo nguyên tắc phi lợi nhuận, đề cao yếu tố đạo lý, nhân văn, nhân đạo. Một số phương thức cung ứng dịch vụ xã hội truyền thống có nguy cơ bị thương mại hóa, thiếu một chính sách rõ ràng đối với khu vực dịch vụ xã hội truyền thống trước các thách thức của thị trường cũng như nguy cơ mai một.
Sự chuyển biến tư duy lý luận nêu trên về dịch vụ xã hội cho thấy Đảng ta đã có nhiều bước tiến đổi mới quản lý phát triển dịch vụ xã hội gắn với quá trình xác lập thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN và chủ động, tích cực hội nhập quốc tế. Tuy nhiên, những vấn đề còn bỏ ngỏ đòi hỏi phải tiếp tục nghiên cứu, làm sáng tỏ thêm, nhằm tạo khung khổ thể chế lãnh đạo cho phát triển dịch vụ xã hội thời gian tới, đảm bảo dịch vụ xã hội vừa tham gia tích cực vào cấu trúc lại mô hình tăng trưởng kinh tế, vừa gia tăng phúc lợi phi thu nhập đối với nhân dân, góp phần định hình các giá trị của CNXH trong từng bước đi và từng chính sách đổi mới.








