Tư duy hội nhập quốc tế trong xây dựng chiến lược KH&CN giai đoạn 2011-2020
Tổng quan HNQT về KH&CN
Bản chất của HNQT về KH&CN
HNQT về KH&CN trong xu thế toàn cầu hoá được thể hiện ở 3 nội dung chủ yếu sau: 1) Phối hợp mang tính toàn cầu đối với công tác nghiên cứu và phát triển (R&D) theo nguyên tắc phát huy ưu thế của từng quốc gia và hợp lý hoá để đem lại hiệu quả cao nhất; 2) Quản lý KH&CN toàn cầu, nghĩa là sử dụng những phương thức tổ chức nghiên cứu KH&CN theo nguyên tắc mở cửa toàn cầu, trong đó đòi hỏi các nước phải tuân thủ những khuôn khổ, chế độ và tiêu chuẩn quốc tế; 3) Tiến hành trao đổi, hợp tác KH&CN theo nguyên tắc chung của thế giới, đảm bảo quyền sở hữu trí tuệ, các nước cùng nhau hưởng lợi trên phạm vi toàn cầu đối với thành quả R&D theo các điều kiện chung.
Để đáp ứng yêu cầu của quá trình HNQT về KH&CN, trên thế giới có xu hướng thiết lập các hình thức “liên doanh”, “liên kết” quốc tế trong R&D với sự tham gia của nhiều công ty, nhiều quốc gia. Việc hợp tác quốc tế (HTQT) như vậy được thể hiện rõ trong các chỉ số chủ yếu như: Các luồng vào/ra của đầu tư trực tiếp nước ngoài ngày càng tăng; thành lập ngày càng nhiều phòng thí nghiệm R&D do nước ngoài đầu tư hoặc liên doanh; hình thành trên quy mô quốc tế các liên minh chiến lược về công nghệ, bao gồm các công ty lớn của Nhật Bản, Mỹ và Tây Âu; trao đổi (hoặc lưu chuyển) nhiều nhà khoa học, kỹ sư, kỹ thuật viên, cũng như tiến hành ngày càng nhiều công trình nghiên cứu chung có sự đồng tác giả quốc tế về KH&CN… Việc sáp nhập, liên doanh, liên kết giữa một số công ty lớn có quy mô hoạt động quốc tế trong thời gian qua đã khẳng định xu thế tăng cường hợp tác và quốc tế hoá trong lĩnh vực sản xuất, R&D nhằm nâng cao năng lực và hiệu quả cạnh tranh trên thị trường quốc tế.
Ứng xử của các nước đang phát triển
Đối với các nước đang phát triển, HNQT về KH&CN còn là một nguồn lực đáng kể góp phần thúc đẩy các hoạt động KH&CN trong nước. Trong bối cảnh cạnh tranh gay gắt, HTQT về KH&CN phải được đẩy mạnh nhằm khai thác có hiệu quả tri thức KH&CN của thế giới và các nguồn lực từ bên ngoài phục vụ phát triển KH&CN trong nước. Đối với một quốc gia, quan hệ quốc tế về KH&CN là một hoạt động đối ngoại trên lĩnh vực KH&CN nhằm tranh thủ thu hút nguồn lực và công nghệ nước ngoài để nâng cao, phát triển trình độ KH&CN trong nước, góp phần thực hiện các mục tiêu chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của đất nước và đưa nền kinh tế quốc gia hội nhập vào đời sống kinh tế và phân công lao động quốc tế.
Những tiêu chí tổng quát của HNQT về KH&CN
HNQT về KH&CN đang diễn ra trên thế giới ở nhiều mức độ, theo các hình thức từ thấp đến cao, có thể tạm phân loại như sau:
Hội nhập theo chỉ tiêu hợp tác về nghiên cứu khoa học,như: Tham dự các hội thảo, hội nghị khoa học quốc tế; có bài viết đăng tải trên các tạp chí khoa học nước ngoài và các tạp chí khoa học quốc tế có uy tín; tham dự vào mạng lưới trao đổi cộng tác viên khoa học.
Hội nhập theo chỉ tiêu cam kết các chuẩn mực chung về KH&CN,như: Công nhận những chuẩn mực quốc tế về nghiên cứu, hình thức của báo cáo khoa học, quy cách và các tiêu chuẩn đạo đức trong hoạt động nghiên cứu; tuân thủ các công ước quốc tế về quyền tác giả, quyền sở hữu công nghiệp; thường xuyên sử dụng các chuyên gia quốc tế trong các hoạt động đánh giá và quản lý KH&CN trong nước… Chỉ tiêu hội nhập cao nhất hiện nay là các quốc gia cùng tạo ra và chia sẻ quyền lợi thu được từ những công nghệ mới.
Hội nhập theo chỉ tiêu hỗ trợ phát triển kinh tế,như: Chuyển giao các thiết bị và dây chuyền sản xuất tiến bộ từ nước ngoài; thúc đẩy đầu tư trong R&D, cùng đầu tư trực tiếp nước ngoài trong R&D; tiếp nhận sở hữu trí tuệ vô hình thông qua việc mua sáng chế, dịch vụ kỹ thuật, thuê nhân công trí thức; mua tri thức ẩn chứa trong các sản phẩm (thường là các sản phẩm công nghệ cao)…
Thuận lợi và khó khăn của Việt Nam trong HNQT về KH&CN
Những thuận lợi
Chủ trương hội nhập kinh tế quốc tế (HNKTQT) sâu rộng
Cùng với quá trình đổi mới, Việt Nam đã từng bước tiến hành HNKTQT và đã thu được nhiều kết quả tích cực. Trong những năm tới, Việt Nam chủ trương tiếp tục HNKTQT sâu và rộng hơn, nhằm tạo tác động lớn hơn tới sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Là một nước đi sau, có xuất phát điểm thấp, Việt Nam chủ động và kiên định mô hình kinh tế thị trường mở cửa và HNKTQT dựa vào tăng trưởng xuất khẩu các sản phẩm công nghiệp chế biến, chế tạo trên cơ sở phát huy các lợi thế so sánh của mình.
Đảng và Chính phủ Việt Nam luôn nhấn mạnh tầm quan trọng của HNKTQT, coi đó là một nhiệm vụ trọng tâm trong thời kỳ mới. Ngày 27.11.2001, Bộ Chính trị đã ra Nghị quyết số 07/NQ-TW về HNKTQT. Tiếp sau đó, Thủ tướng Chính phủ đã có Quyết định số 37/2002/QĐ-TTg ngày 14.3.2002 ban hành Chương trình hành động thực hiện Nghị quyết 07/NQ-TW, trong đó xác định 10 nội dung chính của Chương trình là: 1) Công tác tư tưởng, thông tin, tuyên truyền; 2) Xây dựng, sửa đổi, bổ sung pháp luật, cơ chế, chính sách kinh tế - thương mại; 3) Chuyển dịch cơ cấu kinh tế và nâng cao khả năng cạnh tranh; 4) Tổng hợp và hoàn thiện Chiến lược tổng thể về HNKTQT; 5) Đào tạo nguồn nhân lực; 6) Kết hợp hoạt động chính trị đối ngoại với kinh tế đối ngoại; 7) Nhiệm vụ củng cố an ninh quốc phòng; 8) Đàm phán gia nhập WTO; 9) Mở rộng thị trường xuất/nhập khẩu, tranh thủ sự đầu tư và trợ giúp kỹ thuật của các nước và tổ chức quốc tế; 10) Kiện toàn tổ chức.
Yêu cầu HNKTQT dựa trên HNQT về KH&CN
Yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội, phát triển KH&CN của nước ta đòi hỏi phải đẩy mạnh HNQT về KH&CN, tận dụng các cơ hội do tiến trình toàn cầu mang lại về vốn, tri thức, công nghệ, kinh nghiệm tổ chức và quản lý... nhằm nâng cao năng lực nội sinh về KH&CN, năng lực cạnh tranh của hàng hoá và dịch vụ Việt Nam phục vụ yêu cầu công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Trong bối cảnh toàn cầu hóa, Việt Nam luôn coi HNQT về KH&CN là một trong những mảng hoạt động KH&CN có ý nghĩa quan trọng trong việc huy động các nguồn lực, xây dựng tiềm lực KH&CN và thúc đẩy giải quyết những vấn đề kinh tế - xã hội, đặc biệt là hỗ trợ tăng cường năng lực cạnh tranh của nền kinh tế cả ở tầm quốc gia và tầm doanh nghiệp.
Phẩm chất của người Việt Nam trong HNQT
Thực tiễn đổi mới trong hơn 20 năm qua cũng đã khẳng định một số phẩm chất của con người Việt Nam trước yêu cầu HNKTQT như: Năng lực tiếp nhận cái mới, khả năng thích nghi và phản ứng nhanh với hoàn cảnh, khát vọng thoát khỏi nghèo khổ và quyết tâm vượt khỏi tình trạng tụt hậu. Đó là những phẩm chất tốt để góp phần thúc đẩy HNQT nói chung và HNQT về KH&CN nói riêng.
Hợp tác về KH&CN có bước phát triển năng động
Tính đến hết năm 2008, nước ta đã có mối quan hệ hợp tác về KH&CN với khoảng 70 nước và tổ chức quốc tế, trong đó đã chính thức thiết lập được mối quan hệ hợp tác KH&CN với hầu hết các nước trong khu vực, nhất là các nước ASEAN, các nước có nền kinh tế phát triển (nhóm G7). HTQT về KH&CN đã có những bước phát triển năng động theo xu hướng đổi mới, góp phần đáng kể vào việc tiếp thu và cập nhật tri thức mới của thế giới, tăng cường tiềm lực KH&CN; nâng cao trình độ KH&CN, hiện đại hoá trang thiết bị cho các tổ chức KH&CN. Đồng thời, HTQT về KH&CN cũng đã có những đóng góp cụ thể cho các chương trình phát triển kinh tế - xã hội và giải quyết các nhu cầu cấp thiết của sản xuất và đời sống. Đây là những cơ sở để chúng ta tiếp tục đẩy mạnh và nâng cao hiệu quả hoạt động HTQT về KH&CN trong thời gian tới.
Những khó khăn
HNKTQT về KH&CN chưa dựa trên HNQT
Việt Nam chỉ có thể phát triển kinh tế, HNKTQT bằng cách dựa vào KH&CN. Một nhược điểm của cơ chế kinh tế tập trung, bao cấp còn tồn tại đến nay là sự yếu kém trong ứng dụng, gắn kết tri thức với công nghệ, đổi mới công nghệ phục vụ sản xuất kinh doanh. Vì vậy trong bối cảnh mới, thách thức lớn đối với Việt Nam là làm sao KH&CN đáp ứng được yêu cầu về công nghệ để phát triển kinh tế và phục vụ hiệu quả cho quá trình HNKTQT.
Phát triển kinh tế chưa thực sự theo hướng bền vững
Có thể nhận thấy rằng, những thành tựu đã đạt được của nước ta vừa qua còn dựa chủ yếu vào quá trình đổi mới theo bề rộng, đó là khai thác tài nguyên thiên nhiên và lợi thế giá nhân công rẻ, mà chưa tạo được các yếu tố nuôi dưỡng sự tăng trưởng kinh tế lâu dài và quá trình phát triển bền vững đất nước dựa trên năng lực nội sinh về KH&CN; chưa phát huy tối đa lợi thế so sánh của đất nước là nguồn nhân lực, đặc biệt là nguồn lực trí tuệ trong thời đại cạnh tranh và HNQT.
Nền KH&CN còn lệch chuẩn quốc tế
Theo số liệu của Ban Tuyên giáo Trung ương, tính đến năm 2006, bình quân nhân lực có trình độ đại học và cao đẳng của nước ta đạt 325 người/1 vạn dân, cán bộ KH&CN đạt khoảng 6 người/1 vạn dân. Có khoảng 2,6 triệu người có trình độ đại học và cao đẳng, trên 20 nghìn ThS, 16 nghìn TS và TSKH, 7 nghìn PGS và 1,2 nghìn GS. Có thể nói, số lượng cán bộ KH&CN ở nước ta hiện nay tương đối đông đảo. Tuy nhiên, chất lượng của đội ngũ này vẫn còn nhiều bất cập, đặc biệt là so với chuẩn quốc tế.
Đưa tư duy HNQT vào Chiến lược KH&CN Việt Nam giai đoạn 2011-2020
Biểu thị ý định khi xây dựng chiến lược phát triển
Trong quá trình xây dựng chiến lược phát triển cho một đối tượng (kinh tế - xã hội, hoặc KH&CN), những nội dung chủ yếu của chiến lược có thể được biểu thị bởi những câu hỏi cần trả lời (hoặc làm rõ) được mô tả trên các khối trong hình 1.
Đối với Chiến lược phát triển KH&CN, trong khối 1 “Ta đang ở đâu?”, cần làm rõ: Bối cảnh quốc tế về kinh tế, về KH&CN, xu thế tác động của KH&CN, đặc biệt là các công nghệ cao tới nền kinh tế toàn cầu và các quốc gia cần quan tâm, những bài học cho Việt Nam về phát triển KH&CN. Về bối cảnh trong nước, cần phân tích rõ môi trường pháp lý, kinh tế - xã hội cho hoạt động KH&CN, phát triển tiềm lực KH&CN, đặc biệt là những thời cơ và thách thức đối với KH&CN trong chức năng phục vụ chiến lược phát triển kinh tế - xã hội và phát triển của bản thân KH&CN.
Đối với khối 2 “Ta muốn gì?”, cần nêu rõ những quan điểm và mục tiêu phát triển KH&CN. Khi thực hiện nội dung của khối này, cần tránh một số cách chỉ đạo sai lầm thường gặp, như: 1) Duy ý chí (nghĩa là mong muốn quá nhiều so với khả năng, thường thể hiện trong việc đặt ra các mục tiêu quá “tham vọng”, không khả thi); 2) Tiếp cận “kỹ trị” (phân tích quá chi tiết các chỉ tiêu định lượng, kỹ thuật, tranh cãi miên man về những con số, mà ít chú ý tìm kiếm những giải pháp hiệu quả để thực thi Chiến lược); 3) “Lý luận suông” (quá “say sưa” với những ngôn từ trong từng quan điểm; tranh luận số lượng quan điểm… mà ít chú ý đến những hành động cụ thể).
Đối với khối 3: “Làm gì? Làm như thế nào”, cần đưa ra hệ thống giải pháp cho từng mục tiêu cụ thể; các chương trình, dự án ưu tiên; phương thức tổ chức thực hiện Chiến lược. Một điểm mấu chốt cần tìm ra ở đây là: Đâu là giải pháp “đột phá” có thể giải quyết một cách cơ bản những yếu kém của hiện trạng. Vấn đề lựa chọn ưu tiên cũng có vai trò rất quan trọng ở bước này.
Gắn tư duy HNQT vào phương pháp và quy trình xây dựng Chiến lược KH&CN giai đoạn 2011-2020
Bổ sung tư duy và cách tiếp cận
Tư duy và cách tiếp cận về HNKTQT, đặc biệt là HNQT về KH&CN cần được thể hiện, lồng ghép vào các khâu của quá trình xây dựng Chiến lược KH&CN giai đoạn 2011-2020, từ “Căn cứ pháp lý” (các văn bản pháp lý về HNQT về KH&CN); đến “Đánh giá hiện trạng KH&CN”; “Các quan điểm phát triển KH&CN” và “Các giải pháp và chương trình, dự án ưu tiên”.
Một tư duy đặc biệt quan trọng trong Chiến lược này là: KH&CN Việt Nam phải phát triển theo các chuẩn mực quốc tế, đặc biệt là khía cạnh chất lượng, từ đào tạo, sử dụng nguồn nhân lực KH&CN, đến trang bị các phòng thí nghiệm, tuyển chọn các nhiệm vụ KH&CN…
Bổ sung phương pháp và quy trình đánh giá năng lực HNQT về KH&CN
Để xây dựng Chiến lược phát triển KH&CN Việt Nam giai đoạn 2011-2020, cần tiến hành điều tra, thống kê và phân tích để có thể đánh giá năng lực HNQT về KH&CN của các cơ quan KH&CN, các nhà KH&CN và các doanh nghiệp Việt Nam.
Đánh giá năng lực HNQT của các tổ chức KH&CN có thể dựa trên các tiêu chí: Mối quan hệ với cộng đồng khoa học thế giới; Mức độ trang bị phương tiện thông tin hiện đại; Mức độ sử dụng tư vấn quốc tế; số chương trình, đề tài nghiên cứu có sự cộng tác của nước ngoài; mức độ tham gia trong mạng lưới các tổ chức KH&CN quốc tế…
Đánh giá năng lực HNQT của các nhà khoa học Việt Nam có thể điều tra theo các chỉ tiêu sau: Mức độ thành thạo ngoại ngữ: Hiểu biết luật pháp quốc tế và cách ứng xử phù hợp thông lệ quốc tế; khả năng sử dụng thành thạo các phương tiện thông tin hiện đại; sinh hoạt trong mạng lưới với các dồng nghiệp quốc tế; tham gia các tổ chức KH&CN thế giới; tham gia các hội nghị, hội thảo quốc tế, công bố công trình khoa học trên các tạp chí quốc tế.
Đánh giá năng lực HNQT về KH&CN của doanh nghiệp có thể điều tra theo các chỉ tiêu sau: Tiếp cận nguồn thông tin công nghệ quốc tế; Lựa chọn, tiếp thu công nghệ tiên tiến và chủ trì các hợp đồng chuyển giao công nghệ từ nước ngoài; Sử dụng các chuyên gia kỹ thuật nước ngoài; Mở rộng mạng lưới liên kết sản xuất với các công ty nước ngoài hoặc các doanh nghiệp FDI; Liên kết với các Tập đoàn đa quốc gia (MNC) trong việc tiệp nhận công nghệ, đổi mới sản phẩm, nhằm trở thành một bộ phận của “Chuỗi giá trị toàn cầu”.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Chile, www.concyt.cl/dri, Mục đích hội nhập quốc tế về KH&CN.
2. Centre for Policy Research on S&T, Fraser University, Canada, CPROST Report # 96-06, Các chỉ số về hợp tác quốc tế trong KH&CN.
3. Trần Chí Đức, Phương pháp luận đánh giá các tổ chức R&D và những gợi suy trong điều kiện của Việt Nam -NXB Khoa học và Kỹ thuật, Hà Nội, 2003.
4. Đặng Ngọc Dinh và cộng tác viên, Dự thảo đề án đẩy mạnh HNQT về KH&CN, Bộ KH&CN, 2004.
5. Đặng Hữu Chung, Chấn hưng khoa học từ chuẩn mực và thuật dùng người, www.tiasang.com.vn 16.10.2008.
6. www.tiasang.com.vn 10.11.2008, Phạm Duy Hiển, Khoa học và đại học Việt Nam qua những công bố quốc tế gần đây.








