Trường Caltech và người thầy Richard Feynman
Phần lớn trong số các giáo sư là hội viên của Hàn lâm viện Mỹ. Trên campuscó những nhà vật lý vĩ đại, như Richard Feynman (1918-1988), giải Nobel Vật lý 1965 và là một trong những người lập ra ngành Lượng từ Ðiện từ (Electromagnétique du Quantum) , như Murray Gell-Mann (1929 -), giải Nobel Vậy tlý 1969, khám phá ra Quark (thành phần căn bản của vật chất). Nhưng một điều rất có ý nghĩa là trên campus có bóng dángcủa Edwin Powell Hubble (1889-1953), người đã làm tất cả những nghiên cứu lớn về bản chất của thiên hà và sự bành trướng của vũ trụ trong những năm 1920-1930 tại Pasadena để cho ra đời ra thuyết Big Bang.
Ðể làm việc này, Hubble đã dùng kính thiên văn 2,5 mét của Caltech trên núi Wilson . Ngoài ra, từ đầu thế kỷ 20, trường đã có lần luơt những kính thiên văn lớn nhất thế giới. Và năm 1967, khi tôi đến , trường đã có kính thiên văn rất hiện đại, đường kính 5 mét trên núi Palomar.
Ông đã rơi đúng nơi mà ông cần để học ngành vật lý Thiên thể, và không chủ định!
Vâng, sự tình cờ (nhưng phải chăng đó là sự tình cờ?) đã làm nên việc . Rất nhiều khám phá quan trọng về vũ trụ đã làm tại đó, bởi vì các kính thiên văn này đã lôi cuốn các nhà nghiên cứu lớn. Năm 1963, Marteen Schmidt, giáo sư tại Caltech, đã khám phá ra những quasars, là những thiên thể ở biên giới vũ trụ đã chiếu ánh ánh sáng tuyệt diệu. Năm 1967, ông đã trị vì ngành Thiên văn thật sống động trên campus.
Thật là một nơi lý tưởng để nảy sinh thiên hướng cho một thanh niên 19 tuổi như tôi đang vô cùng khát khao tìm hiểu mọi thứ. Thật là xúc động khi được đắm mình trong tất cả những khám phá này và được những giáo sư dạy cho học những công trình của chính họ, và do mỗi lớp không quá mười lăm người nên chúng tôi được tiếp xúc thật gần gũi với từng giáo sư, cả những vị nổi danh nhất! Thật là tuyệt vời! Thế là tôi đã đổi thay, là kẻ bưóc ra từ một h ệthống giáo dục Pháp, trong đó thầy giáo và học trò luôn giữ một khoảng cách. Thí dụ như tôi chẳng hạn, tôi hoàn toàn ngạc nhiên khi thấy Richard Feynman, một trong những đỉnh cao của ngành Vật lý hiện tại, trả lời một cách kiên nhẫn những câu do những thanh niên mười chín tuổi hỏi ông. Ông tranh luận và pha trò với chúng tôi. Ðó là chưa kể sự tự do lạ thường mà chúng tôi có được. Tôi vô cùng ngạc nhiên khi thấy sinh viên đến bằng chân trần, ăn mặc lôi thôi đến dự giờ do một Nobel giảng dạy! Nhưng nói cho cùng, sao lại không thể như thế? Sau lần “bị sốc”đó, tôi bắt đầu thích môi trường quá phong phú cho sự nảy nở tài năng của mỗi người, bất kể hình thức hay tầng lớp xã hội của họ. Và đặc ân tối cao là chúng tôi có thể gõ bất cứ cửa nào và bất cứ lúc nào, tất cả những đầu óc vĩ đại đó sẽ thong thả trả lời cho chúngtôitừng câu hỏi!
Feynman mà ông kể, là một trong những nhà Vật lý Hiện đại khổng lồ. Ông vừa mới mất. Ông là người phổ biến khoa học thiên tài và đã gợi nên một số lớn những thiên hướng cho các nhà vật lý.
Tình yêu của ông dành cho Vật lý thật dễ lây. Ông liên kết giữa tài nghiên cứu hiếm có và khoa sư phạm đặc biệt.
Chúng tôi muốn biết hơn về những giờ giảng của Feynman. Ông đối với học trò như thế nào?
Ông luôn làm cho bầu không khí bớt căng thẳng bằng cách kể một chuyện vui đùa hay một giai thoại hấp dẫn, làm chúng tôi thoải mái ngay tức khắc Tôi không hề thấy nơi ông một thái độ trịch thượng dù nhỏ. Ông coi trọng chúng tôi. Tôi nghĩ rằng đó là nhờ ông được giáo dục, bởi vì lúc còn nhỏ, ông không ngừng hỏi cha ông. Cha ông phải ngưng mọi việc để trả lời cho ông ngay.Tôi nghĩ rằng ông yêu chuộng những câu hỏi liên tục nơi lớp trẻ rồi ông thích hỏi những câu hỏi bắt bí. Ðó là một giáo sư ngoại hạng. Ông có quan điểm hoàn toàn của riêng ông về việc dạy vật lý.
Ông luôn nhìn thiên nhiên bằng đôi mắt mới lạ, ngây thơ, diễn dịch lại theo cách của riêng ông. Ông không hề đi theo con đường mòn và luôn đặt lại câu hỏi cho những ý tường đã được công nhận. Ông có một trực giác khác thường về những hiện tượng vật lý. Khi ông tấn công một vấn đề, ta có cảm giác rằng ông đã có ngay câu trả lời và một lập luận hợp lý tiếp theo đó dựa trên trực giác của ông. Ðiều này không phải không gây khó khăn cho những người mới bắt đầu, đang còn nhiều bỡ ngỡ đáng thương như chúng tôi. Bài giảng của ông như ảo thuật. Ông giảng cho chúng tôi bằng cả sự giản dị vàợư làm sáng tỏ đáng ngạc nhiên. Chúng tôi có cảm giác như đã hiểu thấu hoàn toàn: thiên nhiên tổ chức như thế nào, những ngôi sao tiến triển ra sao, nước chảy ra sao, những nguyên tử được hình thành như thế nào. Ông làm cho chúng tôi thông minh trong lúc ông dạy, nhưng khổ thay, khi chúng tôi trở về phòng, một mình trước bài ghi, chúng tôi trở nên khô cạn! Chúng tôi còn lâu lắm mới có được thiên tài như ông. Cuối cùng, trường đại học mới hiểu ra rằng, cách dạy của ông thích hợp với những nhà vật lý hơn là với sinh viên trong những bước đầu học đại học. Ngày nay, những bài giảng dạy của ông được in ra và dùng làm sách tham khảo cho các nhà vật lý trên thế giới.
Ðiều này có thể là một kinh nghiệm đối với sinh viên vì cứ tưởng mình là "đã hiểu" khi có mặt Feynman nhưng khi trở về phòng thì chẳng biết làm gì hết.
Vây, đối với những sinh viên mới, chưa có kinh nghiệm nơi phòng thí nghiệm, khi luyện những con toán, những phương trình khó đến chóng mặt, có lẽ đó không phải là phương pháp tốt nhất để học vật lý. Nhưng nói chung, thật mê khi nghe ông giảng, khi nhìn thấy ông nhấn mạnh mỗi câu bằng những cái bĩu môi đầy ý vị. Ông kích đông lòng phấn khởi thật lạ lùng và là thần tượng của tất cả mọi sinh viên. Không những họ ngưỡng mộ Feynman vì tài năng khoa học của ông mà còn vì sự sống động phi thường của ông.Ông sống hết mình, chơi trống bongo (nơi trang đầu tiên của sách giáo khoa vật lý của ông có hình ông đang chơi dụng cụ này), chải chuốt, thích đàn bà đẹp. Thêm nữa là ông khôi hài thâm thuý lắm. Năm 1989, ông mất sau khi cố chống chọi với căn bệnh ung thư trong một thời gian dài. Cả campus đã thương khóc ông. Người nào may mắn được tiếp xúc với ông, đều không thể quên phẩm chất thật lạ lùng của ông. Ðể hiểu rõ nhân vât đặc biệt này hơn , tôi khuyên các bạn đọc quyển tự truyện đã được dịch ra tiếng Pháp: “ Ông có muốn cười không, ông Feynman?”
Là người được tiếp xúc với Feynman, vậy tại sao ông lại không trở thành nhà vật lý. Cái gì đã khiến ông thành nhà vật lý thiên thể?
Ông biết không, trong các trường đại học Mỹ, người ta chọn môn "majeur" làm môn sinh hoạt chính chẳng hạn như trường hợp tôi, đó là môn vật lý. Nhưng ở Caltech, thiên đường khoa học ở mức cao nhất, người ta dạy mọi ngành khoa học: Sinh học, Ðịa chất học.. v.v... và lẽ dĩ nhiên có Thiên văn học. Tôi tìm hiểumỗi ngành một chút và tự hỏi sẽ làm luận án cho lĩnh vực nào. Theo tôi, chủ đề nghiên cứu chủ yếu nhất là vật lý những phần tử cơ bản (particules élémentaires). Ðó là lĩnh vực của những ông chúa tể của campus, hai ông đoạt giải Nobel: Richard Feynman và Muray Gell-Mann. Năm 1963, giáo sư Muray cùng với một giáo sư khác của campus vừa mới đề nghị hạt quark như là viên gạch cơ bản hất của vật chất. Với hạt quark, Gell-Mann có thể xây dựng một lý thuyết để giải thích những tính chất của nhiều phần tử vật chất bắt đầu sinh sôi nảy nở trong những máy gia tốc dùng năng lượng cao... Tôi bị cuốn hút bởi mọi thứ khai triển này.
Tuy nhiên một lĩnh vực khác cũng lôi cuốn tôi: Thiên văn học. Trước tiên, có lẽ vì bóng dáng của Hubble - người đã khám phá ra những thiên hà và sự bành trướng vũ trụ- đang còn trùm trên campus; mặt khác, vì phần đông các giáo sư vật lý của tôi cũng làm ngành Vật lý thiên thể và hay nói về nó trong giờ dạy của họ.
Hai lần thực hành mà tôi làm trong hai mùa hè 1967 và 1968 đã ảnh hưởng đến tôi vô cùng sâu đậm. Vì cần tiền để sinh sống, tôi làm việc mùa hè. Tôi tìm một summer job, như ở Mỹ người ta nói. Một hệ thống trợ cấp - hay grants- thuê tạm thời các sinh viên để làm những con toán hay những thí nghiệm và, lẽ đương nhiên, trong một nơi như Caltech không phải dễ gõ cửa giáo sư nào để làm môn nghiên cứu mà tôi thích. Việc làm đầu tiên của tôi là ở trong phòng thí nghiệm của William Fowler(1911-1995), một Nobel Vật lý (1983) khác, cha đẻ của ngành Vật l ýThiên thể Hạch nhân.
Chính ông đã giải thích cho chúng tôi những nguyên tố nặng như thế nào, những nguyên tố nặng hơn Hydrogen và Helium, và chúng làm ra căn bản của đời sống và được sinh ra từ những ngôi sao.
( dịch từ quyển Trinh Xuan Thuan un astrophysicien - Entretien avec Jacques Vauthier- nxb Beauchesne-Fayard từ trang 8 đến trang 13)
Nguồn : vietsciences.org (09/04/04).