Trước thềm WTO: Tên gọi Tập đoàn trên thế giới và tại Việt Nam
Trước hết, cần xem xét nhận thức về thuật ngữ “tập đoàn kinh tế” cũng như bản chất của thuật ngữ này tại các nước khác nhau trên thế giới và ở Việt Nam.
Tập đoàn kinh tế ở các nước khác nhau được gắn với những tên gọi khác nhau. Nhiều nước gọi là Grouphay businessgroup, Ấn Độ dùng thuật ngữ business houses, Nhật Bản trước chiến tranh thế giới thứ hai là zaibatsuvà sau chiến tranh gọi là keiretsu, Hàn Quốc dùng từ chaebol, Trung Quốc dùng thuật ngữ Tập đoàn DN. Sự đa dạng về tên gọi hay thuật ngữ sử dụng nói lên tính đa dạng của hình thức liên kết được khái quát chung là tập đoàn kinh tế, do đó, quan niệm cũng như nhìn nhận về tập đoàn kinh tế cũng có sự khác nhau nhất định.
Tại các nước phương Tây,tập đoàn kinh tế được nhận thức như là một tổ hợp các công ty hay chi nhánh góp cổ phần chịu sự kiểm soát của công ty mẹhoặc tập đoàn kinh tế và tài chính gồm một công ty mẹ và các công ty khác mà công ty mẹ kiểm soát hay tham gia góp vốn, mỗi công ty con cũng có thể kiểm soát các công ty khác hay tham gia các tổ hợp khác;Tại Nhật Bản tập đoàn kinh tế (keiretsu) là một nhóm các DN độc lập về mặt pháp lý nắm giữ cổ phần của nhau và thiết lập được mối quan hệ mật thiết về nguồn vốn, nguồn nhân lực, công nghệ, cung ứng nguyên vật liệu, tiêu thụ sản phẩm hay tập đoàn bao gồm các công ty có sự liên kết không chặt chẽ được tổ chức quanh một ngân hàng để phục vụ lợi ích của các bên; Tại Malaysia và Thái Lan tập đoàn kinh tế được xác định là tổ hợp kinh doanh với các mối quan hệ đầu tư, liên doanh, liên kết và hợp đồng. Nòng cốt của các tập đoàn là cơ cấu công ty mẹ – công ty con tạo thành một hệ thống liên kết chặt chẽ trong tổ chức và trong hoạt động. Các thành viên trong tập đoàn đều có tư cách pháp nhân độc lập và thường hoạt động trên cùng một mặt bằng pháp lý. Tại Trung Quốc tập đoàn DN là một hình thức liên kết giữa các DN, bao gồm công ty mẹ và các DN thành viên (công ty con và các DN liên kết khác), trong đó công ty mẹ là hạt nhân của tập đoàn và là đầu mối liên kết giữa các DN thành viên với nhau, các DN thành viên tham gia liên kết tập đoàn phải có đầy đủ các quyền và nghĩa vụ của một pháp nhân độc lập. Bản thân tập đoàn không có tư cách pháp nhân.
Tại Việt Nam, tập đoàn kinh tế được hình thành trên cơ sở chuyển đổi và cơ cấu lại một số TCT Nhà nước (đặc biệt là các TCT 91 - TCT Nhà nước được thành lập theo Quyết định số 91/QĐ-TTg ngày 7/3/1994 của Thủ tướng Chính phủ về thí điểm thành lập các Tập đoàn kinh doanh) có tiềm lực kinh tế mạnh, có mức độ tích tụ, tập trung vốn và tài sản nhất định. Phương thức hình thành Tập đoàn kinh tế ở Việt Nam có những đặc trưng gần giống với cách thức hình thành tập đoàn kinh tế tại quốc gia láng giềng Trung Quốc, do đó, tập đoàn kinh tế tại Việt Nam có thể được hiểu như sau:
“Tập đoànkinh tếlà một tổ hợp các DN, bao gồm công ty mẹ, các công ty con (DN thành viên) và các DN liên kết khác. Công ty mẹ là hạt nhân của tập đoàn kinh tế, là đầu mối liên kết giữa các DN thành viên, DN liên kết với nhau. Công ty mẹ nắm quyền kiểm soát, chi phối các quyết sách, chiến lược phát triển và nhân sự; chi phối hoạt động của thành viên. Bản thân tập đoàn kinh tế không có tư cách pháp nhân. Tập đoàn kinh tế hoạt động trong một ngành hay nhiều ngành khác nhau. Các DN thành viên và DN liên kết có quan hệ với nhau về vốn, đầu tư, tài chính, công nghệ, thông tin, đào tạo, nghiên cứu và các liên kết khác xuất phát từ lợi ích của các DN tham gia liên kết”
Như vậy ,thuật ngữ “Tập đoàn” (Group)thường được dùng để chỉ một tổ hợp các DN bao gồm công ty mẹ và các DN thành viên, DN liên kết.
Công ty mẹ( holding company) trong cơ cấu tập đoàn kinh tế có vị trí vô cùng quan trọng thể hiện ở khả năng chi phối của nó đối với các thành viên khác trong tập đoàn.
Do có vị trí và vai trò quan trọng như vậy nên nhiều Tập đoàn kinh tế đang hình thành tại Việt Nam đã muốn thể hiện vai trò quan trọng của công ty mẹ ngay từ tên gọi của nó và dùng luôn thuật ngữ “Tập đoàn...” đặt tên cho công ty mẹ. Điều này có thể dẫn đến nhận thức nhầm lẫn giữa một bên là tập đoàn mà bản chất là nhóm hay tổ hợp các DN liên kết với nhau và một bên là công ty mẹ - đơn vị hạt nhân, chủ chốt trong tập đoàn kinh tế.
Tập đoàn BCVT Việt Nam là một trường hợp như vậy. Cụ thể, theo Quyết định 58/2005/QĐ-TTg ngày 23/3/2005 của Thủ tướng Chính phủ về việc phê duyệt Đề án thí điểm hình thành Tập đoàn BCVT Việt Nam thì: “ Tập đoàn BCVT Việt Nam(1)được hình thành trên cơ sở sắp xếp, tổ chức lại TCT BCVT Việt Nam và các đơn vị thành viên, có cơ cấu bao gồm: Công ty mẹ - Tập đoàn BCVT Việt Nam(2)(gọi tắt là Tập đoàn);TCT Bưu chính Việt Nam; Các TCT viễn thông vùng; Các công ty do Tập đoàn nắm giữ 100% vốn điều lệ; Các công ty do Tập đoàn nắm giữ 50% vốn điều lệ; Các công ty liên doanh với nước ngoài về viễn thông và công nghệ thông tin; Các đơn vị sự nghiệp”. Như vậy, rõ ràng thuật ngữ “Tập đoàn BCVT ”(1)được hiểu là một tổ hợp các DNbao gồm công ty mẹ và các DN thành viên.
Đồng thời, do đặt luôn tên công ty mẹ là Tập đoàn BCVT Việt Nam nên lúc này thuật ngữ “Tập đoàn BCVT Việt Nam” (2)được hiểu là chỉ một đơn vị là công ty mẹ (Điều này thể hiện rõ hơn trong Quyết định số 06/QĐ- TTg ngày 09/1/2006 của Thủ tướng Chính phủ thành lập công ty mẹ - Tập đoàn BCVT Việt Nam:“Thành lập công ty mẹ - Tập đoàn BCVT Việt Nam. Tập đoàn BCVT Việt Nam là công ty Nhà nước,..”và “ Tập đoàn BCVT được hình thành trên cơ sở tổ chức lại cơ quan TCT BCVT Việt Nam- Văn phòng và các bộ phận giúp việc; Công ty Viễn thông liên tỉnh; Công ty viễn thông quốc tế và một bộ phận của công ty Tài chính Bưu điện).
Và theo cách hiểu này thì “Tập đoàn BCVT” (1) bao gồm cả công ty mẹ - “Tập đoàn BCVT Việt Nam” (2). Như vậy, rõ ràng do đặt tên công ty mẹ là Tập đoàn BCVT Việt Nam nên có đôi lúc sẽ gây nhầm lẫn và không rõ ràng trong cách hiểu và nhìn nhận về cả tổ hợp - Tập đoàn BCVT Việt Nam và công ty mẹ trong Tập đoàn.
Vấn đề này cần được nghiên cứu và cần giải thích rõhơnđể tránh những nhầm lẫn.Chúng ta cũng thấy rằng ngay như Trung Quốc, quốc gia cũng muốn xác lập vai trò quan trọng của công ty mẹ bằng tên gọi cũngchỉđặt têncông ty mẹlà công ty tập đoàn chứ không dùng thuật ngữ “ tập đoàn”. Hay như Tập đoàn Than Việt Nam- tập đoàn kinh tế được hình thành như Tập đoàn BCVT Việt Nam cũng đã rõ ràng khi lựa chọn tên chung cho cả tổ hợp tập đoàn và tên riêng của công ty mẹ để tránh sự nhầm lẫn mà vẫn nhấn mạnh được vai trò và vị thế quan trọng của Công ty mẹ trong tập đoàn. Đó là “ Tập đoàn công nghiệp Than - Khoáng sản Việt Nam” (gọi tắt là Tập đoàn) là công ty mẹ có tư cách pháp nhân, thuộc sở hữu Nhà nước do Thủ tướng Chính phủ thành lập” còn “ Tập đoàn các công ty Than - Khoáng sản Việt Nam” (gọi tắt là Tập đoàn các công ty) là tổ hợp không có tư cách pháp nhân do công ty mẹ - Tập đoàn Than - Khoáng sản Việt Nam chi phối, lãnh đạo, bao gồm công ty mẹ và các công ty con....”
Như vậy, nên chăng chúng tacần giải thích rõ thuật ngữ: Tập đoàn BCVT Việt Namlà tên của công ty mẹcòn tổ hợp công ty mẹ và các DN thành viên(TCT Bưu chính Việt Nam; Các TCT Viễn thông vùng; Các công ty công ty mẹ nắm 100% vốn điều lệ,...) nên dùng thuật ngữ “Tập đoàn các DN”hoặc “ Tập đoàn BCVT Việt Nam và các đơn vị thành viên”.Trong Đề án thành lập công ty mẹ - Tập đoàn BCVT Việt Nam cũng có đưa ra thuật ngữ Tập đoàn và các đơn vị thành viênvà giải thích là một tổ hợp các DN có tư cách pháp nhân độc lập bao gồm Tập đoàn BCVT và các đơn vị thành viêntrong một phần ghi chú rất nhỏ nhưng thiết nghĩ, không phải lúc nào những người quan tâm tới Tập đoàn BCVT cũng có và được đọc bản Đề án thành lập, do đó theo tác giả bài viết những ghi chú này cần được bổ sung ngay trong Điều lệ tổ chức và hoạt động cũng như Quy chế quản lí tài chính của công ty mẹ - Tập đoàn BCVT Việt Nam đang được xây dựng và hoàn thiện tại Điều 1- mục giải thích từ ngữ.
Trên đây là một số suy nghĩ mang tính chất trao đổi của tác giả bài viết, hy vọng rằng trong thời gian tới, cùng với việc hoàn thiện các khung pháp lí hoạt động (Điều lệ tổ chức và hoạt động, Quy chế quản lí tài chính của công ty mẹ - Tập đoàn BCVT Việt Nam; TCT Bưu chính; các TCT viễn thông vùng,... và các đơn vị thành viên khác) Tập đoàn BCVT và các đơn vị thành viên sẽ ổn định hoạt động và phát triển thành một tập đoàn kinh tế mạnh, nhanh chóng hội nhập kinh tế quốc tế và phát triển ngang tầm với các tập đoàn kinh tế trong khu vực.
Tài liệu tham khảo:
[1]. BAOLI XU VÀ MINGGAO SHEN (2004), Phát triển tập đoàn DN trong Chính sách phát triển kinh tế - Kinh nghiệm của Trung Quốc,NXB Giao thông Vận tải, Hà Nội năm 2004.
[2]. TRẦN TIẾN CƯỜNG (2005) , Tập đoàn kinh tế - Lí luận và kinh nghiệm quốc tế ứng dụng vào Việt Nam,NXB Giao thông vận tải, Hà Nội năm 2005.
[3]. Quyết định 58/2005/QĐ- TTg ngày 23/3/2005 của Thủ tướng Chính phủ về việc phê duyệt Đề án thí điểm hình thành Tập đoàn BCVT Việt Nam.
[4]. Quyết định số 06/QĐ- TTg ngày 09/1/2006 của Thủ tướng Chính phủ thành lập công ty mẹ - Tập đoàn BCVT Việt Nam.
[5]. Đề án thành lập công ty mẹ – Tập đoàn BCVT Việt Nam
Nguồn: tcbcvt.gov.vn 24/10/2006







