Trung Quốc với vấn đề an ninh sinh thái
Mối đe dọa tới an ninh sinh thái ở Trung Quốc
Có tới 80% lãnh thổ Trung Quốc bị xếp vào “các vùng tai họa sinh thái”. Và mỗi năm, vấn đề ô nhiễm, đột biến môi trường xung quanh lại trở nên trầm trọng hơn; chức năng sinh thái liên quan, như đất - nguồn nước - khí hậu, đang bị giảm sút. Những bất thường về khí hậu, các cơn bão bụi, khói mù gia tăng. Tất cả điều đó gây tổn hại không bù đắp được đối với sức khỏe con người. Các trường hợp ngộ độc bởi các chất thải, số lượng trẻ em bị mắc các khuyết tật bẩm sinh, số lượng người chết do mắc các loại bệnh ung thư tăng lên.
Theo đánh giá của Bộ Bảo vệ môi trường Trung Quốc, thiệt hại kinh tế hàng năm do suy thoái môi trường tự nhiên đối với các vùng vào khoảng 5-13% GDP. Tỷ lệ các chất thải gây ô nhiễm, chi phí năng lượng, vật chất và nước cho 1 đơn vị GDP ở Trung Quốc cao gấp 4-6 lần so với ở các nước phát triển. Ở phần lớn xí nghiệp (đặc biệt là vùng ngoại vi) các công nghệ cũ kỹ, lạc hậu, gây lãng phí nguồn lực, tổn hại môi trường và không hiệu quả vẫn được sử dụng và ở nhiều xí nghiệp vẫn chưa có các hệ thống khử độc. Khối lượng các chất thải gây ô nhiễm vượt quá khả năng tự làm sạch của các tổ hợp sinh thái. Tình trạng nguy cập của môi trường xung quanh làm trầm trọng thêm bất ổn xã hội, căng thẳng thêm mâu thuẫn giữa thành phố và nông thông, công nghiệp và nông nghiệp trong việc tiếp cận tới các tài nguyên thiên nhiên.
Diện tích rừng ở Trung Quốc thấp hơn chỉ số trung bình thế giới 7,5 lần; bãi chăn thả - 3 lần. Diện tích đất canh tác chiếm 13,54% lãnh thổ (121,9 triệu ha hay là 7% diện tích thế giới), thấp hơn 2 lần so với Mỹ và 5,5 lần so với Ấn Độ, chỉ số đất canh tác tính trung bình trên đầu người của Trung Quốc là dưới 0,09 ha (thấp hơn 5 lần mức trung bình thế giới). Trong vòng 30 năm tới, tỷ lệ dân sống ở thành phố có thể tăng từ 47% hiện nay thành 75% dân số. Do đó, phần lớn đất canh tác của Trung Quốc sẽ được dùng để xây dựng đường, nhà và các công trình khác.
60,8% đất nông nghiệp đã bị thoái hóa bởi nước, gió, nhiễm mặn, các hợp chất nitơ, kim loại nặng và vi nấm gây bệnh. Do sử dụng kỹ thuật và công nghệ lạc hậu để tưới tiêu nên cơ cấu thổ nhưỡng bị phá hủy, mất độ màu mỡ. Việc dùng quá nhiều phân hóa học, đặc biệt là các hợp chất nitơ đã làm axit hóa đất trồng của gần như toàn bộ đất trồng của Trung Quốc. Trong 7 năm gần đây, Trung Quốc có được các vụ thu hoạch ngũ cốc lớn hơn nhưng đã gây suy thoái chất lượng thổ nhưỡng và điều đó có thể dẫn đến cuộc khủng hoảng lương thực.
Kết quả bước đầu và lộ trình mới
Cùng với nỗ lực của Chính phủ bằng các chính sách và giải pháp, Trung Quốc đã đạt được kết quả đáng kể trong việc giảm thiểu các mối đe dọa tới an ninh sinh thái và áp dụng các công nghệ thân thiện. Bộ Xây dựng Trung Quốc đã đưa ra kế hoạch tăng đầu tư vào xây dựng các nhà máy điện sử dụng chất thải sinh hoạt, như: Tập đoàn “Sanfen” đã xây dựng ở tỉnh Phúc Kiến 2 nhà máy điện và mỗi ngày, mỗi nhà máy đốt tới 1,2 nghìn tấn rác.
Năm 2009, các hệ số làm sạch của nước thải và vô hại của rác ở các thành phố đã tăng khoảng 67%-69%, các cơ sở sản xuất lạc hậu về luyện gang và thép, sản xuất giấy và điện (tương ứng là 10 triệu tấn, 6,5 triệu tấn và 15 triệu kw) đã bị xóa bỏ. Trung Quốc chi 49,5 tỷ NDT cho việc tiết kiệm năng lượng và giảm các chất thải độc hại, như: Hỗ trợ tái cơ cấu kỹ thuật cho các cơ sở sử dụng tiết kiệm năng lượng; thay thế các cơ sở sản xuất lạc hậu; mở rộng sản xuất ô tô sử dụng các nguồn năng lượng mới; phòng ngừa và khắc phục ô nhiễm ở lưu vực 3 sông (Hoàng Hà, Hải Hà và Liao), 3 hồ (hồ Thái, hồ Sào, hồ Dianchi) và sông Tùng Hoa; xây dựng các mạng lưới đường ống đồng bộ cho các công trình trọng yếu về giảm các chất thải độc hại ở cả thành phố và nông thôn. 52,096 tỷ NDT được chi cho việc tăng cường bảo vệ các rừng tự nhiên, khôi phục trồng rừng ở các khu đất đã được khai hoang và ở các thảo nguyên, ở những nơi từng là bãi chăn thả.
Trong thời gian 2006-2009, các nhà máy điện nhỏ (tổng công suất 60,06 kw), các cơ sở luyện gang, thép, xi măng lạc hậu (tổng công suất tương ứng 81,72 triệu tấn, 60,38 triệu tấn, 214 triệu tấn) đã bị đóng cửa. Năm 2007, Trung Quốc đầu tư 10 tỷ USD cho việc khai thác các nguồn năng lượng có thể tái tạo được và vươn lên vị trí thứ 2 thế giới xét theo chỉ số này (sao Đức). Hiện nay, Trung Quốc trở thành nước đứng đầu thế giới về sử dụng năng lượng mặt trời. Trong thời gian tới, Trung Quốc tiếp tục đầu tư cho việc khai thác các nguồn năng lượng mới có thể tái tạo được (năng lượng nguyên tử, năng lượng gió, năng lượng mặt trời), các vật liệu tiết kiệm năng lượng, kiểm soát ô nhiễm…
Tháng 2/2010, Chính phủ Trung Quốc đã công bố các kết quả của đợt tổng điều tra lần thứ nhất (được tiến hành từ năm 2007) về các nguồn gây ô nhiễm môi trường xung quanh. Đây là cơ sở để Trung Quốc kiểm soát các nguồn gây ô nhiễm. Trung Quốc chi gần 111,5 tỷ NDT cho việc bảo vệ môi trường ở thành phố, trong đó hơn 51 tỷ NDT được chi cho việc xây dựng các công trình xử lý rác sinh hoạt. Tính đến năm 2010, Trung Quốc đã xây dựng 17 khu công nghiệp sinh thái các loại. Ở 24 thành phố, bao gồm cả Bắc Kinh và Thượng Hải, hệ thống thực nghiệm khái thác các nguyên liệu tái sinh được thành lập. Ở 9 tỉnh và 50 huyện thị, hoạt động xây dựng các doanh nghiệp sạch về sinh thái đã được triển khai.
Tháng 10/2010, Trung Quốc vận hành Kế hoạch 5 năm lần thứ 12 nhằm “điều chỉnh cơ cấu kinh tế quốc dân tầm chiến lược”, trong đó có sự điều chỉnh về sinh thái. Cụ thể, Trung Quốc lập kế hoạch cải thiện đáng kể tình trạng môi trường xung quanh với trọng tâm chú ý là tiết kiệm năng lượng, đầu tư mang tính sinh thái, phát triển các công nghệ sinh học, tăng số lượng các chỉ số bảo vệ môi trường. Trung Quốc dự định giảm mức tiêu dùng năng lượng cho 1 đơn vị GDP, giảm khối lượng các chất gây ô nhiễm chính, giảm thảo các chất dioxit cacbon, tăng tỷ lệ tiêu dùng năng lượng có thế tái tạo được. Mức giảm tiêu dùng năng lượng tính cho 1 đơn vị GDP được xác lập là 18%, mức giảm thải các chất dioxit cacbon - 20%.
Trung Quốc kỳ vọng sẽ trở thành nước đứng đầu thế giới về các ngành công nghệ sinh thái. Đến năm 2020, tỷ lệ các nguồn năng lượng không phải là khoáng sản phải đạt 15% khối lượng các nguồn năng lượng sử dụng một lần. Giai đoạn 2010-2030 sẽ có ý nghĩa then chốt để giải quyết các vấn đề sinh thái. Chính ở giai đoạn này, số lượng dân số, nhu cầu về các tài nguyên thiên nhiên và áp lực sinh thái lên chúng sẽ đạt mức cao nhất.








