Trí thức Việt Nam và “vận động trí thức” trong đổi mới
Trong lịch sử Việt Nam không ai không thừa nhận Lý Thường Kiệt, Tô Hiến Thành, Lý Đạo Hành, Lê Văn Thịnh… (thời Lý), Trần Quốc Tuấn, Lê Văn Hưu, Mạc Đĩnh Chi, Đoàn Nhữ Hài, Phạm Sư Mạnh, Nguyễn Trung Ngạn, Trương Hán Siêu (thời Trần) là tiêu biểu cho văn minh thời đại Lý, Trần.
Về sau cũng vậy, Nguyễn Trãi, Lê Thánh Tông, Lương Thế Vinh, Ngô Sĩ Liên… là tiêu biểu cho văn minh Đại Việt thời Lê.
Đến Tây Sơn, trí thức Nho sĩ vẫn được xếp lên hàng đầu của tứ dân. Cả đến khi Nguyễn Huệ sáng suốt đã “trọng cả nông lẫn thương” nhưng khi ra chiếu khuyến nông rồi, vẫn không thay đổi thứ bậc của tứ dân là “sĩ, nông, công, thương”. Kẻ sĩ vẫn đứng ở hàng đầu. Kẻ sĩ Bắc Hà vẫn được Nguyễn Huệ trọng dụng.
Ở các triều đại văn minh, trong cấu trúc xã hội, trí thức luôn là một lớp “chất xám”. Họ “vận động” như một thực thể xã hội “tiến lên, lùi xuống” cả về chất lẫn về lượng theo cơ chế quản lí hiện hành tiến bộ hay lạc hậu.
Cơ chế tiến bộ thì lấy chữ “trung quân, ái quốc” làm đầu. Trong sự vận hành của cơ chế “trung quân, ái quốc” đó, chỉ có “anh quân” mới có “hiền thần”, “minh tướng”. Chỉ có “vua hiền” mới có “tôi ngay” mà “tôi ngay” cũng chỉ có thể thi thố được tài năng khi nhờ được “vua hiền”.
Ngược lại thì:
Vua hiền chọn tôi ngay mà dùng
Tướng giỏi tìm minh chúa mà thờ
Đó là thuật “tu thân xử thế” của những người hiền nhân, quân tử thời phong kiến.
Nhưng cả vua và tôi là trí thức đều phải lấy mình ra làm gương cho thiên hạ noi theo.
Vua thì theo đó để “chiêu hiền, đãi sĩ”. Lê Lợi trụ ở Lam Sơn mà đã chiêu tập được người hiền từ bốn phương tụ hội như Nguyễn Trãi, Trần Nguyên Hãn… từ ngoài Bắc đã vào để “Lam Sơn tụ nghĩa”, tham dự “Hội thề Lũng Nhai”, mở đầu cho kỉ nguyên giữ nước và dựng nước…
Nguyễn Huệ ra Bắc thu phục ngay được nhân tâm của Nho sĩ Bắc Hà cũng chính vì gương anh dũng cứu nước, biết mình, biết người của ông.
Chủ tịch Hồ Chí Minh của chúng ta ngày nay thật diệu kì trong thu phục nhân tâm, trọng dụng nhân tài, vì thế cụ Huỳnh Thúc Kháng đã quên đi cách đối xử cũ của cách mạng mà ra làm việc với Người, được Người tín nhiệm tới mức giao cho trọng trách việc nước với phương châm thực hiện “dĩ bất biến ứng vạn biến”. Trần Đại Nghĩa, Trần Hữu Tước, Đặng Văn Ngữ, Lương Đình Của, Nguyễn Khắc Viện… bỏ cả giàu sang, phú quí mà về nước với Chủ tịch Hồ Chí minh, với dân tộc, tất cả đều do uy đức và sự cảm hoá lớn lao của Người.
Những tấm gương tiêu biểu đó đều biểu hiện ra vẻ mặt trí thức là trong hai lĩnh vực “Tri” và “Hành”. “Hành” thì bao gồm cả ba yêu cầu: “Hành đạo”, “Hành đức”, “Hành tài”.
Về “hành đạo”, trí thức Việt Namtrong lịch sử thời nào cũng vậy luôn vận động đi lên theo một cái “đạo” mà ở Việt Nam xưa là “đạo yêu nước trung quân”; nay sang thế kỉ XXI ra đạo “yêu nước vì dân”. Từ Phan Bội Châu trở đi, nước không còn gắn với vua nữa nên “ái quốc” không còn đi đôi với “trung quân” mà “yêu nước” đã gắn với “vì dân”.
Người dân ta, của dân ta
Dân là của nước, nước là của dân
Cho nên thuật vận động của những người lãnh đạo đối với “khối trí thức” luôn luôn “vận động theo chiều hướng đi lên” là ở chỗ nêu cao tấm gương “Hành đạo, Hành đức, hành tài”. Trong hơn nửa thế kỷ cách mạng vừa qua, nếu cái “đạo giữ nước” thật đúng đắn đã đem lại nhiều thành công, lôi cuốn được trí thức đi theo, thì cái “đạo dựng nước” hiện nay còn gặp nhiều khó khăn.
Trong “đổi mới”, vừa qua chúng ta đã điều chỉnh lại bước đi, sửa cái “đạo dựng nước” từ “tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc lên chủ nghĩa xã hội” sang “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”, là trí thức đi theo ngay một cách chân thành và đông đảo.
Kinh nghiệm xưa và nay ngày càng cho thấy “Đức ở trong Tài”, hay một cách khác là “Tài không thể ở ngoài Đức” mà cả Đức, Tài đều là nằm trong cái “Đạo Việt Nam” - Đạo “yêu nước, vì dân”. Đó vẫn là kim chỉ nam cho sự nghiệp: “Trí thức vận động” và “vận động trí thức” ngày nay của chúng ta.








