Liên hiệp các hội khoa học và kỹ thuật Việt Nam
Thứ sáu, 16/06/2006 23:39 (GMT+7)

Trang phục thổ cẩm làng Công Dồn

Thôn Công Dồn có đến 98% là đồng bào dân tộc Cơ-tu sinh sống, chiếm 18% dân số toàn xã Zuôih. Từ trên cao nhìn xuống, thôn Công Dồn tựa như lòng chảo, được bao bọc bởi bốn bên là núi. Người Cơ-tu thôn Công Dồn sống khá tập trung. Nhà ở gần như sát nhau, dáng nhà sàn, mái hình mu rùa, lợp lá nón, lá mây hoặc lá tranh. Chính giữa có ngôi nhà chung ( gươl) là nơi diễn ra các lễ hội truyền thống của cộng đồng, sinh hoạt văn hoá chung của làng.

Người Cơ-tu thôn Công Dồn canh tác theo hình thức luân phiên, đất làm một mùa rồi bỏ hoá, lương thực và làm lại rẫy mới và cứ 2-3 năm sau mới quay lại. Đất canh tác trồng các loại lương thực và hoa màu như: lúa, bắp, đậu, diện tích còn lại trồng cây bông. Do độ đốc lớn nên hầu hết các loại cây trồng ở đây cho năng suất rất thấp.

Cũng như cộng đồng dân tộc Cơ-tu nói chung, người Cơ-tu thôn Công Dồn xã Zuôih huyện Nam Giang từ xa xưa đã biết trồng cây bông để kéo sợi dệt vải. Cây bông được trồng trên đất rẫy, dọc theo suối Rinh, vào tháng 2, tháng 3. Thời gian này, thì nắng đã ấm, đất có độ ẩm cao, dân làng dọn đất để trỉa. Họ dùng cây chọc lỗ, khoảng cách mỗi lỗ từ 1-2 gang tay (cho đất dốc và đất đã qua sử dụng từ 2-3 mùa rẫy); từ 2-3 gang tay cho đất mới khai phá và đất dọc theo suối. Khi bông được 1 tháng, họ dọn cỏ, tỉa bớt những cây nhỏ không có khả năng cho năng suất. Từ 3-4 tháng (khoảng tháng 6, tháng 8) cây bông có thể cho thu hoạch.

Thôn Công Dồn có 60 hộ thì có đến 40 hộ trồng bông. Trung bình mỗi hộ trồng được gần 1 ha, có gia đình trồng từ 2-3 ha. Bông ở Công Dồn là giống bông có xuất xứ từ người Cơ-tu anh em bên Lào ( Kpay Lao). Đây là giống bông có từ xa xưa, dân làng vẫn duy trì và loại bông của người Kinh ( Kpay Prâng) có được do trao đổi, buôn bán. Để có bông chất lượng cao họ lựa chọn những quả bông tốt, loại những quả bông xấu. Để tạo ra sợi bông dệt (vì còn hạt) họ dùng giàn tách bông (jàng iêu), dụng cụ đánh tơi bông ( tà pếch), giàn quay sợi ( ver), giàn quấn sợi ( tur), khung kéo sợi ( chair), khung dệt ( o óp).

Khung dệt của họ gồm 10 bộ phận chính: cây gôc dát mỏng dài khoảng 2 cm và cong để buộc dây choàng vào sau lưng ( chơ rơ đo), ống tre để người thợ dệt đạp chân vào cho khung dệt căng ra, làm các sợi vải được căng thẳng ( dhờ rá), cây dẹp làm bằng gỗ để dập mạnh vào cho vai được kín ( chrờ tau), cây lược chỉ để kéo lên, kéo xuống khi ống thoi chỉ đưa qua đưa lại ( trờ ko), ống thoi chỉ để đưa sợi vào dệt ( xeh), cây nhỏ nhọn để lược chỉ khi người thợ tạo hoa văn ( pa nêh), hai cây để cuốn dần vải sau khi đã dệt xong (a nốp), hai cây làm bằng lát tre được vót nhọn ở 2 đầu để đo độ lớn, rộng của miếng vải, khi dệt được một đoạn thì chuyển cây này để làm chuẩn dệt tiếp mà miếng vải không bị thụt vào hay dôi ra ( trờ pâng), cây để tách sợi thành 2 lớp, lớp trên, lớp dưới (trờ ko) và một lông nhím dùng để chải, truốt cho sợi không bị xơ, rối ( mà lua). Tất cả các dụng cụ trên được họ thoa sáp ong cho trơn.

Gắn bó với núi rừng Trường Sơn - Tây Nguyên từ rất xa xưa nên thiên nhiên ở đây đã ảnh hưởng đến cuộc sống của người Cơ-tu thôn Công Dồn (thuộc vùng cao của huyện Nam Giang), vì thế, trang phục của họ mang nhiều màu sắc hoang dã. Màu chủ đạo của trang phục là màu chàm đen và màu đỏ. Người Cơ-tu quan niệm: màu đen là màu của đất, màu đỏ là màu của mặt trời, đây là hai màu của hai vật thiêng không thể thiếu trong đời sống của họ. Để có những màu sắc ưng ý, người Cơ-tu thôn Công Dồn phải tìm và là thử từ nhiều loại vỏ cây, ốc… Nhuộm màu là cả một quá trình đúc kết kinh nghiệm từ đời này sang đời khác, là bí quyết của người Cơ-tu nơi đây. Muốn có màu chàm đen họ dùng từ cây tà râm giã nát, ngâm lâu ngày, màu vàng từ củ ma rớt, màu đỏ từ cây ahứcũng được giã nát ngâm trong nước.

Người Cơ-tu thôn Công Dồn thích nhất là hoa văn bằng chì (hiện nay hoa văn này không còn thấy họ dùng nữa), thứ đến là hoa văn bằng cườm ( chr tu arát) (hạt cườm làm bằng nhựa tổng hợp mua dưới xuôi). Do điều kiện sống như nói ở trên, thiên nhiên đã làm cho trang phục của người Cơ-tu nơi đây thêm phần hấp dẫn. Hoa văn trên trang phục rất đa dạng và phong phú là nhờ vào cách dàn cườm và phụ thuộc vào tay nghề mà cách tạo hoa văn sinh động hấp dẫn. Tuỳ thuộc vào từng lứa tuổi mà cách tạo hoa văn bằng cườm khác nhau như: hoa văn hình hoa tình yêu ( ablơm), hoa văn lá ( atút), hình chiếc chong chóng, hình các thiếu nữ Cơ-tu múa da dá (máu nữ), hình lá trầu ( a bá), hoa văn hình xoắn buộc nhà gươl ( hơ ma ca ting), hình mã não, hình hoa rừng ( hơ ma tơ bang)… Sau đó được dệt hoàn toàn bằng phương pháp thủ công nhưng đã tạo thành những hoạ tiết hoa văn đặc sắc, tinh tế bằng cườm trắng trên nền chàm đen, thể hiện tính thẩm mỹ và tài năng sáng tạo của người phụ nữ Cơ-tu.

Điều dễ nhận thấy qua trang phục của họ là sự đơn giản, không cầu kỳ về màu sắc. Tuy nhiên, theo quan niệm của họ, màu sắc luôn phản ánh được nhân sinh quan, thế giới quan của người Cơ-tu về vạn vật, trời đất, vũ trụ…

- Váy ngắn ( ơ réch) được dệt trên nền chàm đen, có màu trắng, đỏ, vàng, là loại váy được thiếu nữ và phụ nữ Cơ-tu mặc ở nhà hoặc đi làm rẫy. Các hoạ tiết hoa văn đơn giản, không cầu kỳ. Trong các lễ hội lớn của buôn làng như: lễ ăn mừng nhà gươl ( lang tơ rí); lễ ăn mừng được mùa (b huối a ví); lễ ăn mừng lúa mới ( cha ha roo tơ mêê)… váy ngắn được các phụ nữ Cơ-tu lớn tuổi mặc nhiều hơn, các hoạ tiết hoa văn cũng đa dạng và cầu kỳ, phong phú hơn: hình mã não, hình dây buộc nhà gươl (hơ ma ca ting), hình lá trầu, hoa rừng ( hơ ma tơ bang), hình hàng rào ( gơ roong)… Kích thước cho loại váy này dài từ 0,8 – 1m, rộng khoảng 70 - 80cm được khâu lại bằng chỉ, tạo cho váy có hình ống. Khi mặc vào, trên phần ngang bụng họ bẻ xấp lại rồi dùng dây buộc ngang thắt lưng.

- Váy dài ( cơ dơ ớch) được dệt trên nền chàm đen, có nhiều màu đỏ, trắng, vàng, có nhiều hoạ tiết hoa văn bằng cườm rất sinh động như: hình mã não, hình thiếu nữ Cơ-tu múa da dá, hình cửa sổ tình yêu, dây buộc nhà gươl ( hơ ma ca ting), hình là trầu ( a bá)… Loại váy này được các thiếu nữ Cơ-tu chưa chồng rất thích, họ mặc cả trong ngày thường và các lễ hội lớn của cộng đồng. Váy khâu lại thành 2 lớp, dài khoảng 3m, chiều rộng váy từ 1,5 - 1,7m (tuỳ thuộc vào chiều cao của mỗi người). Khi mặc, váy kéo đến ngang ngực, và để váy khỏi tuột các thiếu nữ dùng dây thắt ngực buộc vào để lộ ra phần vai mềm mại. Váy dài phụ nữ Cơ-tu nhiều hoạ tiết hoa văn cách điệu, nhưng các hoạ tiết hoa văn lại tập trung thành mặt phẳng lớn ở phần dưới của thân váy.

- Dây thắt ngực có chiều dài khoảng 18 - 2m; chiều rộng 10cm. Dây được dệt trên nền vải mộc, có nhiều hoạ tiết hoa văn hình học cách điệu; hai đầu dây có tua dài nhiều màu khoảng 30cm, dùng để buộc cho váy khỏi bị tuột. Ngoài ra dây thắt ngực còn làm tăng thêm phần hấp dẫn cho váy, khi các thiếu nữ Cơ-tu thực hiện các động tác múa ( da dá) uyển chuyển.

- Áo cộc tay ( a doóh): được dệt trên nền chàm đen có nhiều màu vàng, trắng, đỏ, gồm 2 mảnh được khâu lại với nhau, có chiều rộng mỗi tấm từ 15-60cm, dài từ 40-50cm. Khi áo được khâu có dáng cổ hình chữ Va. Áo cộc tay được dùng cho cả thiếu nữ và phụ nữ lớn tuổi (áo dùng cho phụ nữ lớn tuổi các hoạ tiết hoa văn ít cầu kỳ, đơn giản). Áo dùng cho thiếu nữ thì các hoạ tiết hoa văn cầu kỳ, hấp dẫn hơn. Hoa văn bằng cườm trắng hình thiếu nữ Cơ-tu múa da dá, hình hoa tình yêu, hình cửa sổ tình yêu, hình lá trầu, dây buộc nhà gươl, hình gợn sóng, hình chong chóng… Trên phần vai của áo họ thêu nhiều tua màu đỏ, vàng trông rực rỡ sắc màu.

- Khố ( cha lon): khố đàn ông Cơ-tu được dệt trên nền chàm đen, có nhiều màu trắng, vàng, đỏ, chiều rộng khoảng 45cm, chiều dài từ 3-8m. Hoạ tiết hoa văn bằng cườm rất sinh động: hình dây buộc nhà gươl, lá trầu, mã não, hình đàn ông Cơ-tu múa tung tung(múa nam)…

Chiếc khố của đàn ông Cơ-tu với vạt trước dài, vạt sau ngắn, cũng được bố trí các hoạ tiết hoa văn bằng cườm thành từng mảng lớn.

- Tấm choàng ( a duông): cũng được dệt trên nền chàm đen có nhiều màu vàng, đỏ, trắng, được đàn ông, thanh niên Cơ-tu mặc vào mùa giá rét, đi chơi xa, hoặc mặc trong các lễ hội lớn của cộng đồng. Các hoạ tiết hoa văn đơn giản, không cầu kỳ, ít thấy có bố cục hoa văn bằng cườm.

- Tấm đắp: cũng được dệt trên nền chàm đen gồm nhiều màu đỏ, vàng, trắng, chiều rộng từ 2-3m, dài từ 2-2,5 m, được người Cơ-tu dùng trong những mùa gió rét.

- Trang phục trẻ em: Nhìn chung trang phục trẻ em người Cơ-tu thôn Công Dồn từ xưa đến nay chỉ thấy mặc tấm choàng. Khi đi làm rẫy hoặc ở nhà (nếu trẻ em từ 1-3 tuổi) được mẹ lấy tấm choàng quấn sau lưng địu. Các loại trang phục khác nhìn chung chưa thấy họ dệt riêng.

Nghề dệt thổ cẩm truyền thống của người Cơ-tu thôn Công Dồn xã Zuôih, huyện Nam Giang đã tạo nên tính đa dạng về màu sắc. Thổ cẩm của họ đi cùng với nhiều lễ hội lớn của buôn làng mang tính nhân văn, toát lên vẻ hoang sơ của núi rừng Trường Sơn - Tây Nguyên. Sản phẩm từ nghề dệt truyền thống của người Cơ-tu thôn Công Dồn không những có giá trị về mặt kinh tế mà còn là nét đẹp văn hoá trong phong tục - tập quán cộng đồng của người Cơ-tu từ xưa đến nay. Các thiếu nữ ở đây trước khi đi lấy chồng được chị, mẹ bày cách trồng bông dệt vải, quay sợi, các thao tác về dệt. Nhờ đó mà nghề dệt thổ cẩm nơi đây được duy trì và phát triển từ đời này sang đời khác, đóng góp tích cực vào nhu cầu mặc, làm ra hàng hoá để trao đổi, buôn bán, tăng thêm thu nhập cho người dân.

Trung bình mỗi năm, tranh thủ thời gian nông nhàn, các mẹ, các chị trong buôn đã dệt khoảng 500 tấm tút, váy, áo các loại… nhiều người như mế: Alăng Tuôn, Tơ Ngôn A Đắp, B Nướch Gong… đã ngoài 70 tuổi mà vẫn cùng con cháu trong làng đến nhà gươl để dệt vải. Trong các cuộc họp của các ban ngành, đoàn thể như Chi hội Phụ nữ, Đoàn Thanh niên, Hội Nông dân… đều có kế hoạch lồng ghép để tuyên truyền, vận động đồng bào trong buôn trồng bông dệt vải. Vào các ngày lễ hội của cộng đồng, thôn đều tổ chức thi tay nghề, nhiều chị như: Pơ Linh Lan, Pơ Linh Tuyết, A Lăng Ướt, A Lăng Hy, Pơ Loong Nhâm… có tay nghề rất giỏi. Bình thường mỗi tấm dệt khoảng 15 - 20 ngày nhưng các chị chỉ dệt từ 10 - 12 ngày.

Nghề dệt thổ cẩm truyền thống của người Cơ-tu thôn Công Dồn từ xưa đã nổi tiếng. Những sản phẩm như đã trình bày ở trên của đồng bào không những dùng làm đồ sinh hoạt trong gia đình mà còn được mang đi trao đổi, buôn bán với các địa phương khác hoặc dùng làm quà tặng cho những khách quý hoặc bà con, họ hàng thân thuộc. Trong khi nhiều nơi ở Quảng Nam nghề dệt thổ cẩm truyền thống có phần mai một hoặc không được chú trọng thì ngược lại, nghề dệt thổ cẩm truyền thống ở thôn Công Dồn, xã Zuôih được giữ gần như nguyên vẹn, đây là một dấu hiệu rất đáng quý cần được gìn giữ và phát triển.

Nguồn: Dân tộc & Thời đại, số 74, 1/2005, tr 6 - 8

Xem Thêm

Thúc đẩy ứng dụng AI trong quản lý năng lượng - Giải pháp then chốt giảm phát thải nhà kính
Ngày 17/12, tại phường Bà Rịa, thành phố Hồ Chí Minh (TP.HCM), Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (VUSTA) phối hợp cùng Sở Công Thương TP.HCM, Trung tâm Chứng nhận Chất lượng và Phát triển Doanh nghiệp và Công ty Cổ phần Tập đoàn Vira tổ chức Hội thảo khoa học “Giải pháp thúc đẩy ứng dụng AI trong quản lý, sử dụng năng lượng hiệu quả nhằm giảm phát thải khí nhà kính”.
Thúc đẩy vai trò của Liên hiệp các Hội KH&KT địa phương trong bảo tồn đa dạng sinh học và thực thi chính sách
Trong hai ngày 12-13/11, tại tỉnh Cao Bằng, Liên hiệp các Hội KH&KT Việt Nam (VUSTA) phối hợp với Trung tâm Con người và Thiên nhiên (PanNature) và Liên hiệp các Hội KH&KT tỉnh Cao Bằng tổ chức Chương trình chia sẻ “Thúc đẩy vai trò của Liên hiệp các Hội KH&KT địa phương trong bảo tồn đa dạng sinh học và thực thi chính sách”.
Thúc đẩy ứng dụng thực tiễn của vật liệu tiên tiến trong sản xuất năng lượng sạch
Ngày 24/10, tại Trường Đại học Khoa học Tự nhiên – Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (VUSTA) phối hợp với Hội Khoa học Công nghệ Xúc tác và Hấp phụ Việt Nam (VNACA) tổ chức Hội thảo khoa học “Vật liệu tiên tiến ứng dụng trong sản xuất nhiên liệu tái tạo và giảm phát thải khí nhà kính”.
Dựa vào thiên nhiên để phát triển bền vững vùng núi phía Bắc
Đó là chủ đề của hội thảo "Đa dạng sinh học và giải pháp dựa vào thiên nhiên cho phát triển vùng núi phía Bắc" diễn ra trong ngày 21/10, tại Thái Nguyên do Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (Vusta) phối hợp với Trung tâm Con người và Thiên nhiên (PANNATURE) phối hợp tổ chức.
Muốn công tác quy hoạch hiệu quả, công nghệ phải là cốt lõi
Phát triển đô thị là một quá trình, đô thị hoá là tất yếu khách quan, là một động lực quan trọng cho phát triển kinh tế - xã hội nhanh và bền vững. Trong kỷ nguyên vươn mình, quá trình đô thị hoá không thể tách rời quá trình công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước...
Hội thảo quốc tế về máy móc, năng lượng và số hóa lần đầu tiên được tổ chức tại Vĩnh Long
Ngày 20/9, tại Vĩnh Long đã diễn ra Hội thảo quốc tế về Máy móc, năng lượng và số hóa hướng đến phát triển bền vững (IMEDS 2025). Sự kiện do Hội Nghiên cứu Biên tập Công trình Khoa học và Công nghệ Việt Nam (VASE) - hội thành viên của Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (VUSTA) phối hợp cùng Trường Đại học Sư phạm Kỹ thuật Vĩnh Long (VLUTE) tổ chức.
Ứng dụng công nghệ số toàn diện là nhiệm vụ trọng tâm của VUSTA giai đoạn tới
Ứng dụng công nghệ số toàn diện, xây dựng hệ sinh thái số là bước đi cấp thiết nhằm nâng cao hiệu quả quản trị và phát huy sức mạnh đội ngũ trí thức của Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (VUSTA). Qua đó cho thấy, VUSTA không chỉ bắt kịp xu thế công nghệ mà còn chủ động kiến tạo những giá trị mới, khẳng định vai trò tiên phong của đội ngũ trí thức trong thời đại số.

Tin mới

Đoàn Thanh niên VUSTA trao yêu thương, lan tỏa tri thức tới điểm trường Ấm Hiêu, tỉnh Thanh Hóa
Ngày 18/12, Ban Chấp hành Đoàn Thanh niên Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (VUSTA) tham gia Lễ khánh thành Cụm công trình thư viện và nhà vệ sinh tại điểm trường Ấm Hiêu, Trường tiểu học Cổ Lũng, tỉnh Thanh Hóa, đồng thời trao tặng sách, truyện cho các em học sinh tại Điểm trường.
Hội nghị Hội đồng Trung ương Liên hiệp Hội Việt Nam lần thứ 11, khóa VIII
Sáng ngày 19/12, Đoàn Chủ tịch Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (Liên hiệp Hội Việt Nam) tổ chức Hội nghị Hội đồng Trung ương Liên hiệp Hội Việt Nam lần thứ 11, khóa VIII (2020-2025). Hội nghị được tổ chức nhằm đánh giá kết quả hoạt động năm 2025, xác định phương hướng, nhiệm vụ công tác năm 2026; đồng thời xem xét một số nội dung quan trọng thuộc thẩm quyền của Hội đồng Trung ương.
Phó Chủ tịch VUSTA Phạm Ngọc Linh dẫn đoàn Việt Nam tham dự Diễn đàn Kỹ sư Lan Thương - Mekong 2025
Ngày 7/12, tại Tp. Côn Minh, tỉnh Vân Nam, Trung Quốc, Diễn đàn Kỹ sư Lan Thương - Mekong 2025 đã được tổ chức với chủ đề “Kỹ thuật xanh và Phát triển bền vững”. Đoàn Việt Nam do Phó Chủ tịch Liên hiệp Hội Việt Nam Phạm Ngọc Linh - làm trưởng đoàn đã tham dự Diễn đàn. Tham gia Đoàn công tác có đại diện của Hội Thủy lợi Việt Nam, Ban Khoa học và Hợp tác quốc tế, Văn phòng Liên hiệp Hội Việt Nam.
Thúc đẩy ứng dụng AI trong quản lý năng lượng - Giải pháp then chốt giảm phát thải nhà kính
Ngày 17/12, tại phường Bà Rịa, thành phố Hồ Chí Minh (TP.HCM), Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (VUSTA) phối hợp cùng Sở Công Thương TP.HCM, Trung tâm Chứng nhận Chất lượng và Phát triển Doanh nghiệp và Công ty Cổ phần Tập đoàn Vira tổ chức Hội thảo khoa học “Giải pháp thúc đẩy ứng dụng AI trong quản lý, sử dụng năng lượng hiệu quả nhằm giảm phát thải khí nhà kính”.
Liên hiệp Hội Việt Nam đoạt Giải Ba Cuộc thi Chính luận về Bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng
Tham gia Cuộc thi Chính luận về Bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng lần thứ I, năm 2025 trong Đảng bộ MTTQ, các đoàn thể Trung ương, Liên hiệp Hội Việt Nam vinh dự có nhóm tác giả đoạt Giải Ba và Đảng uỷ Liên hiệp Hội Việt Nam là một trong 05 tổ chức Đảng được tặng Bằng khen của Ban Thường vụ Đảng ủy MTTQ, các đoàn thể Trung ương vì đã có thành tích xuất sắc trong tổ chức Cuộc thi.
Ngập úng đô thị - Thách thức và biện pháp giảm thiểu
Hội thảo “Ngập úng đô thị - Thách thức và biện pháp giảm thiểu” là diễn đàn trao đổi khoa học và thực tiễn, tập trung đánh giá toàn diện thực trạng, nguyên nhân và mức độ tác động của ngập úng đô thị, đồng thời đề xuất các giải pháp tổng hợp về quy hoạch, kỹ thuật, quản trị và chính sách…
VUSTA đón tiếp và làm việc với Đoàn công tác Hiệp hội Khoa học và Công nghệ Quảng Đông (GDAST)
Ngày 16/12, tại Trụ sở Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (VUSTA), Phó Chủ tịch VUSTA Phạm Ngọc Linh đã chủ trì buổi tiếp và làm việc với Đoàn công tác của Hiệp hội Khoa học và Công nghệ tỉnh Quảng Đông (GDAST), nhằm trao đổi thông tin, chia sẻ kinh nghiệm và thúc đẩy hợp tác trong lĩnh vực khoa học công nghệ.
Đổi mới tư duy quy hoạch cải tạo đô thị theo hướng phát triển bền vững
Quá trình đô thị hóa gắn liền với các cuộc cách mạnh công nghiệp. Việc cải tạo đô thị ở các giai đoạn đô thị hóa đều được dẫn dắt bởi các tư tưởng quy hoạch, định hình nên mô hình đô thị sau cải tạo. Tư duy quy hoạch cải tạo đô thị nhấn mạnh sự linh hoạt, đề cao sự phát triển bền vững, bảo tồn di sản và sự tham gia của cộng đồng, chuyển từ mô hình một trung tâm sang mô hình đa trung tâm.