Trang phục thổ cẩm làng Công Dồn
Thôn Công Dồn có đến 98% là đồng bào dân tộc Cơ-tu sinh sống, chiếm 18% dân số toàn xã Zuôih. Từ trên cao nhìn xuống, thôn Công Dồn tựa như lòng chảo, được bao bọc bởi bốn bên là núi. Người Cơ-tu thôn Công Dồn sống khá tập trung. Nhà ở gần như sát nhau, dáng nhà sàn, mái hình mu rùa, lợp lá nón, lá mây hoặc lá tranh. Chính giữa có ngôi nhà chung ( gươl) là nơi diễn ra các lễ hội truyền thống của cộng đồng, sinh hoạt văn hoá chung của làng.
Người Cơ-tu thôn Công Dồn canh tác theo hình thức luân phiên, đất làm một mùa rồi bỏ hoá, lương thực và làm lại rẫy mới và cứ 2-3 năm sau mới quay lại. Đất canh tác trồng các loại lương thực và hoa màu như: lúa, bắp, đậu, diện tích còn lại trồng cây bông. Do độ đốc lớn nên hầu hết các loại cây trồng ở đây cho năng suất rất thấp.
Cũng như cộng đồng dân tộc Cơ-tu nói chung, người Cơ-tu thôn Công Dồn xã Zuôih huyện Nam Giang từ xa xưa đã biết trồng cây bông để kéo sợi dệt vải. Cây bông được trồng trên đất rẫy, dọc theo suối Rinh, vào tháng 2, tháng 3. Thời gian này, thì nắng đã ấm, đất có độ ẩm cao, dân làng dọn đất để trỉa. Họ dùng cây chọc lỗ, khoảng cách mỗi lỗ từ 1-2 gang tay (cho đất dốc và đất đã qua sử dụng từ 2-3 mùa rẫy); từ 2-3 gang tay cho đất mới khai phá và đất dọc theo suối. Khi bông được 1 tháng, họ dọn cỏ, tỉa bớt những cây nhỏ không có khả năng cho năng suất. Từ 3-4 tháng (khoảng tháng 6, tháng 8) cây bông có thể cho thu hoạch.
Thôn Công Dồn có 60 hộ thì có đến 40 hộ trồng bông. Trung bình mỗi hộ trồng được gần 1 ha, có gia đình trồng từ 2-3 ha. Bông ở Công Dồn là giống bông có xuất xứ từ người Cơ-tu anh em bên Lào ( Kpay Lao). Đây là giống bông có từ xa xưa, dân làng vẫn duy trì và loại bông của người Kinh ( Kpay Prâng) có được do trao đổi, buôn bán. Để có bông chất lượng cao họ lựa chọn những quả bông tốt, loại những quả bông xấu. Để tạo ra sợi bông dệt (vì còn hạt) họ dùng giàn tách bông (jàng iêu), dụng cụ đánh tơi bông ( tà pếch), giàn quay sợi ( ver), giàn quấn sợi ( tur), khung kéo sợi ( chair), khung dệt ( o óp).
Khung dệt của họ gồm 10 bộ phận chính: cây gôc dát mỏng dài khoảng 2 cm và cong để buộc dây choàng vào sau lưng ( chơ rơ đo), ống tre để người thợ dệt đạp chân vào cho khung dệt căng ra, làm các sợi vải được căng thẳng ( dhờ rá), cây dẹp làm bằng gỗ để dập mạnh vào cho vai được kín ( chrờ tau), cây lược chỉ để kéo lên, kéo xuống khi ống thoi chỉ đưa qua đưa lại ( trờ ko), ống thoi chỉ để đưa sợi vào dệt ( xeh), cây nhỏ nhọn để lược chỉ khi người thợ tạo hoa văn ( pa nêh), hai cây để cuốn dần vải sau khi đã dệt xong (a nốp), hai cây làm bằng lát tre được vót nhọn ở 2 đầu để đo độ lớn, rộng của miếng vải, khi dệt được một đoạn thì chuyển cây này để làm chuẩn dệt tiếp mà miếng vải không bị thụt vào hay dôi ra ( trờ pâng), cây để tách sợi thành 2 lớp, lớp trên, lớp dưới (trờ ko) và một lông nhím dùng để chải, truốt cho sợi không bị xơ, rối ( mà lua). Tất cả các dụng cụ trên được họ thoa sáp ong cho trơn.
Gắn bó với núi rừng Trường Sơn - Tây Nguyên từ rất xa xưa nên thiên nhiên ở đây đã ảnh hưởng đến cuộc sống của người Cơ-tu thôn Công Dồn (thuộc vùng cao của huyện Nam Giang), vì thế, trang phục của họ mang nhiều màu sắc hoang dã. Màu chủ đạo của trang phục là màu chàm đen và màu đỏ. Người Cơ-tu quan niệm: màu đen là màu của đất, màu đỏ là màu của mặt trời, đây là hai màu của hai vật thiêng không thể thiếu trong đời sống của họ. Để có những màu sắc ưng ý, người Cơ-tu thôn Công Dồn phải tìm và là thử từ nhiều loại vỏ cây, ốc… Nhuộm màu là cả một quá trình đúc kết kinh nghiệm từ đời này sang đời khác, là bí quyết của người Cơ-tu nơi đây. Muốn có màu chàm đen họ dùng từ cây tà râm giã nát, ngâm lâu ngày, màu vàng từ củ ma rớt, màu đỏ từ cây ahứcũng được giã nát ngâm trong nước.
Người Cơ-tu thôn Công Dồn thích nhất là hoa văn bằng chì (hiện nay hoa văn này không còn thấy họ dùng nữa), thứ đến là hoa văn bằng cườm ( chr tu arát) (hạt cườm làm bằng nhựa tổng hợp mua dưới xuôi). Do điều kiện sống như nói ở trên, thiên nhiên đã làm cho trang phục của người Cơ-tu nơi đây thêm phần hấp dẫn. Hoa văn trên trang phục rất đa dạng và phong phú là nhờ vào cách dàn cườm và phụ thuộc vào tay nghề mà cách tạo hoa văn sinh động hấp dẫn. Tuỳ thuộc vào từng lứa tuổi mà cách tạo hoa văn bằng cườm khác nhau như: hoa văn hình hoa tình yêu ( ablơm), hoa văn lá ( atút), hình chiếc chong chóng, hình các thiếu nữ Cơ-tu múa da dá (máu nữ), hình lá trầu ( a bá), hoa văn hình xoắn buộc nhà gươl ( hơ ma ca ting), hình mã não, hình hoa rừng ( hơ ma tơ bang)… Sau đó được dệt hoàn toàn bằng phương pháp thủ công nhưng đã tạo thành những hoạ tiết hoa văn đặc sắc, tinh tế bằng cườm trắng trên nền chàm đen, thể hiện tính thẩm mỹ và tài năng sáng tạo của người phụ nữ Cơ-tu.
Điều dễ nhận thấy qua trang phục của họ là sự đơn giản, không cầu kỳ về màu sắc. Tuy nhiên, theo quan niệm của họ, màu sắc luôn phản ánh được nhân sinh quan, thế giới quan của người Cơ-tu về vạn vật, trời đất, vũ trụ…
- Váy ngắn ( ơ réch) được dệt trên nền chàm đen, có màu trắng, đỏ, vàng, là loại váy được thiếu nữ và phụ nữ Cơ-tu mặc ở nhà hoặc đi làm rẫy. Các hoạ tiết hoa văn đơn giản, không cầu kỳ. Trong các lễ hội lớn của buôn làng như: lễ ăn mừng nhà gươl ( lang tơ rí); lễ ăn mừng được mùa (b huối a ví); lễ ăn mừng lúa mới ( cha ha roo tơ mêê)… váy ngắn được các phụ nữ Cơ-tu lớn tuổi mặc nhiều hơn, các hoạ tiết hoa văn cũng đa dạng và cầu kỳ, phong phú hơn: hình mã não, hình dây buộc nhà gươl (hơ ma ca ting), hình lá trầu, hoa rừng ( hơ ma tơ bang), hình hàng rào ( gơ roong)… Kích thước cho loại váy này dài từ 0,8 – 1m, rộng khoảng 70 - 80cm được khâu lại bằng chỉ, tạo cho váy có hình ống. Khi mặc vào, trên phần ngang bụng họ bẻ xấp lại rồi dùng dây buộc ngang thắt lưng.
- Váy dài ( cơ dơ ớch) được dệt trên nền chàm đen, có nhiều màu đỏ, trắng, vàng, có nhiều hoạ tiết hoa văn bằng cườm rất sinh động như: hình mã não, hình thiếu nữ Cơ-tu múa da dá, hình cửa sổ tình yêu, dây buộc nhà gươl ( hơ ma ca ting), hình là trầu ( a bá)… Loại váy này được các thiếu nữ Cơ-tu chưa chồng rất thích, họ mặc cả trong ngày thường và các lễ hội lớn của cộng đồng. Váy khâu lại thành 2 lớp, dài khoảng 3m, chiều rộng váy từ 1,5 - 1,7m (tuỳ thuộc vào chiều cao của mỗi người). Khi mặc, váy kéo đến ngang ngực, và để váy khỏi tuột các thiếu nữ dùng dây thắt ngực buộc vào để lộ ra phần vai mềm mại. Váy dài phụ nữ Cơ-tu nhiều hoạ tiết hoa văn cách điệu, nhưng các hoạ tiết hoa văn lại tập trung thành mặt phẳng lớn ở phần dưới của thân váy.
- Dây thắt ngực có chiều dài khoảng 18 - 2m; chiều rộng 10cm. Dây được dệt trên nền vải mộc, có nhiều hoạ tiết hoa văn hình học cách điệu; hai đầu dây có tua dài nhiều màu khoảng 30cm, dùng để buộc cho váy khỏi bị tuột. Ngoài ra dây thắt ngực còn làm tăng thêm phần hấp dẫn cho váy, khi các thiếu nữ Cơ-tu thực hiện các động tác múa ( da dá) uyển chuyển.
- Áo cộc tay ( a doóh): được dệt trên nền chàm đen có nhiều màu vàng, trắng, đỏ, gồm 2 mảnh được khâu lại với nhau, có chiều rộng mỗi tấm từ 15-60cm, dài từ 40-50cm. Khi áo được khâu có dáng cổ hình chữ Va. Áo cộc tay được dùng cho cả thiếu nữ và phụ nữ lớn tuổi (áo dùng cho phụ nữ lớn tuổi các hoạ tiết hoa văn ít cầu kỳ, đơn giản). Áo dùng cho thiếu nữ thì các hoạ tiết hoa văn cầu kỳ, hấp dẫn hơn. Hoa văn bằng cườm trắng hình thiếu nữ Cơ-tu múa da dá, hình hoa tình yêu, hình cửa sổ tình yêu, hình lá trầu, dây buộc nhà gươl, hình gợn sóng, hình chong chóng… Trên phần vai của áo họ thêu nhiều tua màu đỏ, vàng trông rực rỡ sắc màu.
- Khố ( cha lon): khố đàn ông Cơ-tu được dệt trên nền chàm đen, có nhiều màu trắng, vàng, đỏ, chiều rộng khoảng 45cm, chiều dài từ 3-8m. Hoạ tiết hoa văn bằng cườm rất sinh động: hình dây buộc nhà gươl, lá trầu, mã não, hình đàn ông Cơ-tu múa tung tung(múa nam)…
Chiếc khố của đàn ông Cơ-tu với vạt trước dài, vạt sau ngắn, cũng được bố trí các hoạ tiết hoa văn bằng cườm thành từng mảng lớn.
- Tấm choàng ( a duông): cũng được dệt trên nền chàm đen có nhiều màu vàng, đỏ, trắng, được đàn ông, thanh niên Cơ-tu mặc vào mùa giá rét, đi chơi xa, hoặc mặc trong các lễ hội lớn của cộng đồng. Các hoạ tiết hoa văn đơn giản, không cầu kỳ, ít thấy có bố cục hoa văn bằng cườm.
- Tấm đắp: cũng được dệt trên nền chàm đen gồm nhiều màu đỏ, vàng, trắng, chiều rộng từ 2-3m, dài từ 2-2,5 m, được người Cơ-tu dùng trong những mùa gió rét.
- Trang phục trẻ em: Nhìn chung trang phục trẻ em người Cơ-tu thôn Công Dồn từ xưa đến nay chỉ thấy mặc tấm choàng. Khi đi làm rẫy hoặc ở nhà (nếu trẻ em từ 1-3 tuổi) được mẹ lấy tấm choàng quấn sau lưng địu. Các loại trang phục khác nhìn chung chưa thấy họ dệt riêng.
Nghề dệt thổ cẩm truyền thống của người Cơ-tu thôn Công Dồn xã Zuôih, huyện Nam Giang đã tạo nên tính đa dạng về màu sắc. Thổ cẩm của họ đi cùng với nhiều lễ hội lớn của buôn làng mang tính nhân văn, toát lên vẻ hoang sơ của núi rừng Trường Sơn - Tây Nguyên. Sản phẩm từ nghề dệt truyền thống của người Cơ-tu thôn Công Dồn không những có giá trị về mặt kinh tế mà còn là nét đẹp văn hoá trong phong tục - tập quán cộng đồng của người Cơ-tu từ xưa đến nay. Các thiếu nữ ở đây trước khi đi lấy chồng được chị, mẹ bày cách trồng bông dệt vải, quay sợi, các thao tác về dệt. Nhờ đó mà nghề dệt thổ cẩm nơi đây được duy trì và phát triển từ đời này sang đời khác, đóng góp tích cực vào nhu cầu mặc, làm ra hàng hoá để trao đổi, buôn bán, tăng thêm thu nhập cho người dân.
Trung bình mỗi năm, tranh thủ thời gian nông nhàn, các mẹ, các chị trong buôn đã dệt khoảng 500 tấm tút, váy, áo các loại… nhiều người như mế: Alăng Tuôn, Tơ Ngôn A Đắp, B Nướch Gong… đã ngoài 70 tuổi mà vẫn cùng con cháu trong làng đến nhà gươl để dệt vải. Trong các cuộc họp của các ban ngành, đoàn thể như Chi hội Phụ nữ, Đoàn Thanh niên, Hội Nông dân… đều có kế hoạch lồng ghép để tuyên truyền, vận động đồng bào trong buôn trồng bông dệt vải. Vào các ngày lễ hội của cộng đồng, thôn đều tổ chức thi tay nghề, nhiều chị như: Pơ Linh Lan, Pơ Linh Tuyết, A Lăng Ướt, A Lăng Hy, Pơ Loong Nhâm… có tay nghề rất giỏi. Bình thường mỗi tấm dệt khoảng 15 - 20 ngày nhưng các chị chỉ dệt từ 10 - 12 ngày.
Nghề dệt thổ cẩm truyền thống của người Cơ-tu thôn Công Dồn từ xưa đã nổi tiếng. Những sản phẩm như đã trình bày ở trên của đồng bào không những dùng làm đồ sinh hoạt trong gia đình mà còn được mang đi trao đổi, buôn bán với các địa phương khác hoặc dùng làm quà tặng cho những khách quý hoặc bà con, họ hàng thân thuộc. Trong khi nhiều nơi ở Quảng Nam nghề dệt thổ cẩm truyền thống có phần mai một hoặc không được chú trọng thì ngược lại, nghề dệt thổ cẩm truyền thống ở thôn Công Dồn, xã Zuôih được giữ gần như nguyên vẹn, đây là một dấu hiệu rất đáng quý cần được gìn giữ và phát triển.
Nguồn: Dân tộc & Thời đại, số 74, 1/2005, tr 6 - 8







