Trạng chiếu
Ông xuất thân từ một gia đình nghèo khó. Tương truyền, cha sống bằng nghề chài lưới, mẹ dựng một túp lều bên bến sông Luộc bán nước và hoa quả kiếm sống qua ngày. Từ nhỏ ông đã ham học và thông minh nên được một người khá giả trong họ nhân nuôi cho ăn học. Ông được lên xuồng và học ở làng Thanh Nhàn, huyệ Kim Hoa (nay thuộc huyện Đông Anh, Hà Nội). Tại đây ông học rất chuyên cần, hiểu biết rất nhanh. Thầy dạy đã có lần nhận xét: “Con học rộng, biết nhiều, biết trọng đạo thầy trò, sau này hẳn con là người sẽ làm nên việc lớn”.
Quả như lời thầy nói, năm 27 tuổi, ông đi thi đỗ Trạng nguyên, từ thi Hương thi Hội đến thi Đình ông đều đỗ đầu. Đại Việt sử ký toàn thưghi rõ: “Tân Sửu Hồng Đức năm thứ 12 (1481) mùa hạ, tháng 4 thi Hội cho các cử nhân trong nước, lấy đỗ bọn Phạm Đôn Lễ 40 người. Ngày 27 vua ngự điện Kính Thiên thân hành ra đầu bài văn sách… cho bọn Phạm Đôn Lễ… Ba người đỗ tiến sĩ cập đệ… Phạm Đôn Lễ tên tự là Lê Khanh, người Ngự Thiên, phủ Tân Hưng, ngụ ở Thanh Nhàn, huyện Kim Hoa, thi đỗ 27 tuổi, thi Hương, thi Hội, thi Đình đều đỗ đầu, người đời gọi là Tam nguyên Đôn Lễ” (Nxb. KHXH, 1998, T.H, tr.483). Sau khi thi đỗ ông được bổ dụng vào viện Hàn Lâm, sau thăng đến Tả thị Lang bộ Lễ. Trong cuộc đời làm quan, sử không ghi rõ công trạng của ông, nhưng với quê hương ông những người làm nghề dệt chiếu thì ông được tôn làm tổ nghề, được lập đền thờ - đền Quan Trạng hay còn gọi là “đền Trạng Chiếu”.
Các sách viết về ông đều ghi: “Năm 1484 ông dẫn đầu đoàn sứ bộ sang nhà Minh, khi đến vùng Ngọc Hà, châu Quế Lâm (Quảng Tây) thấy dân ở đây có nghề dệt chiếu, ông liền chuyên chú khảo sát… khi về nước ông đem nghề này truyền bá lại cho dân”.
Dân làng Hải Triều thì kể rằng: “Làng Hới, Hải Triều có nghề dệt chiếu từ lâu đời, chiếu Hải Triều đã đi khắp nơi, lên cả kinh đô Thăng Long. Song do kỹ thuật, nên chiếu làm ra chậm, chưa đẹp. Khi Quan Trạng đi sứ nhà Minh, đến vùng dân chuyên sống bằng nghề dệt chiếu, họ giữ nghề không truyền nghề cho ai song vốn thông minh ông đã học được cách làm của họ. Thấy khung dệt của họ có thêm “ngựa” đỡ sợi, sợi căng đều nên họ dệt nhanh, lại đẹp. Về nước, ông đem những điều đã học được nhân chuyến đi sứ, chế ra go, khung, ngựa, rồi dạy dân làm theo. Ông hướng dẫn dân cách nảy, cài, lại nghĩ ra cách nhuộm cói… Từ đó làm ra các loại chiếu đậu, chiếu cải, chiếu hoa… Chiếu Hới sợi đay xe mảnh nhưng săn, sợi viền mép được giấu kín, phẳng nhưng không dễ tuột. Chiếu hoa thì màu hoa bền đẹp đến lúc chiếu hỏng không phai màu. Vì vậy chiếu Hới có tiếng trong cả nước. Sách Đại Nam nhất thống chíghi nhiều nơi làm chiếu nhưng phải thừa nhận chiếu Hải Triều (Hới) tốt hơn cả. Với nhân dân ngày xưa thì chiếu Hới trở thành một nhu cầu, một ước vọng trong đời sống. “Ăn cơm Hom, nằm giường Hòm, đắp chiếu Hới” là một mơ ước mà chỉ những người giàu có mới mua sắm được. Với dân làng Hới khi chiếu Hới nổi tiếng, chiếu được bán rộng rãi khắp nơi thì đời sống nhân dân được no đủ và dân rất biết ơn Quan Trạng. Sau khi Phạm Đôn Lễ qua đời, dân làng Hải Triều đã lập đền thờ ông, suy tôn ông là ông tổ nghề chiếu.