Trận địa An Dương & những người bạn Mỹ
Chúng tôi là những cán bộ, chiến sĩ của Trung đoàn 220 pháo phòng không - Sư đoàn 361. Ngay từ những ngày đầu của cuộc chiến "chống chiến tranh phá hoại của Mỹ trên miền Bắc”, đơn vị chúng tôi đã thường xuyên góp lửa chiến đấu; và được xem là "át chủ bài" của lực lượng phòng không Thủ đô.
Giờ đây đọc lại những dòng nhật ký giao ban của trung đoàn ngày ấy, chúng tôi như được sống lại một thời tuổi trẻ - đã sống chiến đấu kiên cường vì Thăng Long - Hà Nội.
"Ngày 16-12-1966, đợt đánh thứ hai của địch vào Hà Nội (từ mồng 2 đến 14-12), trong đợt này các lực lượng phòng không - không quân đã bắn rơi 26 máy bay Mỹ, trong đó Sư đoàn 361 bắn rơi chiếc thứ 1.600 của giặc Mỹ trên miền Bắc".
Những năm 1966-1967-1968, sư đoàn phòng không 361 chúng tôi luôn luôn bám trụ kiên cường chiến đấu trên khắp các trận địa của Thủ đô, nhất là ở trận địa An Dương phía Bắc cầu Long Biên.
Cuối năm 1968, Mỹ tuyên bố ngừng ném bom miền Bắc. Mặc dù vậy, Quân ủy Trung ương vẫnnhắc nhở chúng tôi là phải: "Tăng cường luyện tập, nêu cao cảnh giác, địch vào là tiêu diệt gọn". Vì vậy trên trận địa ngày cũng như đêm, mưa nắng, kể cả những ngày giông bão chúng tôi vẫn không ngừng luyện tập.
Thế rồi mùa xuân Kỷ Dậu (16-2-1969) ngày mồng 1 Tết Bác Hồ đến thăm và chúc tết Quân chủng phòng không - không quân. Cùng đi với Bác hôm ấy có đồng chí Nguyễn Lương Bằng và thượng tướng Văn Tiến Dũng. Bác hỏi thăm gia đình, quê hương, cả chuyện yêu đương, vợ con của các chiến sĩ đang quây quần bên Bác. Bác cháu trò chuyện tưởng như không dứt ra được, nhưng rất nhanh, Bác căn dặn các chiến sĩ:
"Bác đang bận nhiều việc, chỉ mong các cháu nhớ điều này: kẻ địch tuyên bố ngừng ném bom, nhưng không tin được Mỹ đâu. Chúng nó xảo quyệt lắm. Chúng nó là bọn đế quốc xâm lược, ta phải cảnh giác và luôn luôn sẵn sàng chiến đấu, để khi nó giở quẻ là mình đập lại nó được ngay".
Đến đầu năm 1972, đúng như lời cảnh báo của Bác, Mỹ lại mở rộng chiến tranh phá hoại ra miền Bắc lần thứ hai; với quy mô rộng lớn và vô cùng tàn bạo. Tổng thống Mỹ Nixon ra lệnh cho hải quân, không quân Hoa Kỳ đánh mạnh và phong tỏa làm tê liệt hoàn toàn miền Bắc. Một lần nữa vận mệnh Tổ quốc lâm vào tình thế rất nghiêm trọng.
Ngày mồng 9-4-1972, Bộ tổng tham mưu ra lệnh cho các lực lượng vũ trang miền Bắc chuyển vào trạng thái trực chiến. Ngày 13-4-1972, Đảng ủy Quân chủng phòng không - không quân ra chỉ thị: Kiên quyết đánh tan âm mưu leo thang bằng không quân của giặc Mỹ, địch vào là biết, đánh trả mãnh liệt, đánh thật trúng, đánh rơi tại chỗ nhiều máy bay, diệt nhiều giặc lái...
Ngày 10-5-1972, tự vệ nhà máy điện Yên Phụ bắn rơi một máy bay F4 của Mỹ tại trận địa An Dương. Ngày 29-9-1972, Mỹ tăng cường máy bay F111, bay thấp đánh ban đêm. Ngày 8-10-1972, Bộ tư lệnh quân chủng Phòng không - không quân ra chỉ thị về cách đánh máy bay F111, phá tan âm mưu mới của địch.
Thực hiện chỉ thị trên, đơn vị chúng tôi đã hạ diệt tại chỗ nhiều máybayđịch, bắt sống nhiều giặc lái, nhưng chúng tôi cũng gánh chịu những tổn thất rất đauxót.Có những trận cả đại đội chỉ còn vài chiến sĩ... những mâmcơm dọn ra không có người ăn;đồng bào đem quà cho trận địacứ ôm nhau mà khóc. Bao đồngđội thương yêu của chúng tôi trẻ trung, tràn đầy sức sống, phơiphới tương lai, mà phút chốc tanbiến trong bom đạn. Bây giờ nhớlại, chúng tôi vẫn thấy nỗi đau quặn thắt trong lòng...
Những ngày tháng ấy, bạn bè khắp hành tinh đều hướng về Thủ đô Hà Nội. Tại trận địa An Dương, đơn vị chúng tôi được tiêp đón chị Jane Fonda, nghệ sĩ điện ảnh nổi tiếng của Mỹ đến thăm. Hôm ấy chị đội nón lá, vận áo bà ba trắng theo kiểu Nam bộ, trông chị thật là trẻ trung xinh đẹp, nổi bật giữa nắng vàng Hà Nội. Chị nói với chúng tôi:
"Thật là vinh hạnh hôm nay tôi được gặp những người bạn, những anh hùng mà tôi cũng như tất cả nhân dân tiến bộ Mỹ hằng mến phục. Cho tôi gửi đến thanh niên Việt Nam tinh thần đoàn kết và sự khâm phục về lòng dũng cảm và giá trị nhân văn cao cả của các bạn trong đấu tranh vì hòa bình ở Việt Nam".
Sau lời mở đầu đầy thiện cảm ấy, chị đi khắp trận địa, đến từng khẩu đội bắt tay các chiến sĩ đang thao tác tập luyện. Chị nói với các chiến sĩ khẩu đội 4: "Được đứng giữa thủ đô đất nước của Bác Hồ kính yêu, để bày tỏ tình cảm mãnh liệt của nhân dân tiến bộ Mỹ ủng hộ cuộc chiến đấu của nhân dân Việt Nam, đó là ước vọng lớn nhất của đời tôi. Tôi tin rằng nhân dân Việt Nam nhất định thắng, chân lý thuộc về các bạn. Còn bọn xâm lược nhất định thất bại thảm hại. Hòa bình và cuộc sống hạnh phúc nhất định sẽ đến với nhân dân Việt Nam anh hùng".
Thời gian này ở Paris đang diễn ra hội nghị bôn bên, bàn về việc kết thúc chiến tranh và lập lại hòa bình ở Việt Nam. Bởi thái độ ngoan cố, bất hợp tác của phía Mỹ và chính quyền Sài Gòn, Hội nghị thường bế tắc. Trước tình thế ấy, chị Jane Fonda khẩn trương bay đến Paris họp báo. Chị xúc động nói với các nhà báo thế giới:
"Các quả bom Mỹ đang rơi xuống đất nước Việt Nam, nhưng tấmthảm kịch lại ở nước Mỹ. Tôi đã nhiều lần khóc ở Việt Nam, không phải vì người Việt Nam mà chính là vì người Mỹ. Đây là tấm thảm kịch của nước Mỹ. Cần phải mất nhiều năm mới có thể gột sạch những vết nhơ do những kẻ như ông Nixon gây ra trên lácờ Mỹ...". Một người bạn của tôi ngày ấy đi tháp tùng đoàn đại biểu Chính phủ ta, đã kể lại với chúng tôi. Gần 40 năm trôi qua, tình cảm của chị đối với chúng tôi vẫn như ngọn lửa hồng nồng thắm. Chị vẫn nhớ đến chúng tôi vối một nỗi niềm khắc khoải khôn nguôi...
Có nhà văn Mỹ là bạn thân của Jane Fonda là Lady Borton thường đi lại và viết ở Việt Nam, bà coi Việt Nam là Tổ quốc thứ hai của mình. Bà viết nhiều tác phẩm về Việt Nam đã được dịch ra nhiều thứ tiếng trên thế giới. Năm 2008, Lady Borton về Mỹ; khi trở lại Việt Nam thì chị Jane Fonda đã có trao cho bà một đĩa ghi hình do các phóng viên Nhật Bản quay năm 1972 khi Jane Fonda đến thăm các chiến sỹ cao xạ phòng không ở trận địa An Dương. Chị nhờ tìmhộ những chiếnsỹtrong đĩa hìnhngày ấy ai còn, ai mất...
Bằng kinh nghiệm của nhà văn, nhà báo từng trải, bà Lady Borton đã tìm và gặp được chúng tôi ở một căn nhà nhỏ yên tĩnh, tươi mát bóng cây bên sông Tô Lịch, ngoại vi trung tâm Thành phố Hà Nội.
Bà Lady Borton cùng chúng tôi xem lại đĩa hình... Chị Jane Fonda cũng như chúng tôi gần 40 năm trước đây... tất cả đều trẻ trung tràn đầy sức sống, còn bây giờ thì... bất chợt bà Lady Borton nhìn chúng tôi với ánh mắt đầy thiện cảm, bà nói:
"Bây giờ tôi cũng như chị Jane và các bạn đều già cả rồi, nhưng tôi vẫn luôn luôn nghĩ rằng tuổi trẻ của chúng ta, những năm tháng chiến đấu và công hiến hết mình để có một Thủ đô ngàn năm văn hiến - Thành phố vì hòa bình - đoàn kết và nhân ái thì không bao giờ già cả!"
Nói vậy rồi bà Lady Borton nối máy; và từ New York chị Jane Fonda đã liên lạc được với chúng tôi. Khi biết đích xác chúng tôi là những chiến sỹ ở trận địa phòng không bãi An Dương, nơi mà ngày ấy chị xiết chặt tay chúng tôi, cổ vũ khích lệ chúng tôi chiến đấu không chỉ vì Việt Nam, mà còn vi hòa bình, nhân ái trên toàn thế giói, chị thật sự tỏ ra vui mừng, xúc động, chị nói:
"Qua nhà văn Lady Borton mà tôi được nghe lại tiếng nói của các bạn. Có thể nói đây là đoạn kết thúc rất có hậu của bản anh hùng ca "Chiến đấu vì nhân loại...". Nhất định ngày gần đây, tôi sẽ lại qua Việt Nam để thăm các bạn, cũng là để sống lại tuổi trẻ của mình, cùng với những thần tượng mà tôi vô cùng yêu mến cảm phục..."n
Ghi theo lời kể của
ĐỗVăn Lộc








