Tổng quan khoa học thế giới hiện nay
Phần lớn (gần 71%) các nhà khoa học làm việc ở các nước công nghiệp phát triển. Cứ 1 triệu người dân các nước này có 3.272,7 nhà khoa học so với 374,3 ở các nước nghèo. Cán bộ khoa học sống ở nước giàu, được tài trợ hào phóng hơn.
Tại các nước thuộc Liên Xô cũ có 700,5 ngàn nhà khoa học, phần lớn (616,6 ngàn) tập trung ở những nước nằm trên lãnh thổ châu Âu – Nga, Ucraina, Belarut, Monđôva, Grudia, Acmenia và Adecbaigian. Đồng thời, có một nghịch lý là ở Liên Xô cũ có nhiều nhà khoa học, nhưng họ được tài trợ kém hơn nhiều so với đồng nghiệp của họ ở châu Âu, châu Á và Bắc Mỹ. Chẳng hạn, cứ 1 triệu dân châu Âu trước đây thuộc thành phần Liên Xô hiện nay có 2.979,1 nhà khoa học so với 2.438,9 ở Liên minh châu Âu. Nhưng chi phí cho một nhà khoa học châu Âu là 177 ngàn USD một năm, trong khi chi phí cho một nhà khoa học Nga, Ucraina, Belarut, Monđôva chỉ là 29,1 ngàn USD.
Mỗi năm, trên thế giới chi tiêu 150.300 USD cho hoạt động của một nhà khoa học. Tình hình cung cấp tài chinh cho các công trình nghiên cứu khoa học ở các nước Trung Á có lẽ tồi tệ nhất thế giới: ở đây mỗi năm người ta chỉ chi 8,9 ngàn USD tính trên một nhà khoa học, trong khi đó ở châu Phi nhiệt đới cũng phải chi 113,9 ngàn USD.
Nước Nga hiện có số lượng nhà khoa học chiếm 8,9% tổng số nhà khoa học trên thế giới. Về chỉ tiêu này, Nga đứng hàng thứ tư trên thế giới, chỉ thua Mỹ (22,8%), Trung Quốc (14,7%) và Nhật Bản (11,7%). Nhưng về mặt chi tiêu cho khoa học thì nước Nga tụt xa. Tính trên đầu một nhà khoa học, Nga chỉ bỏ ra 30 ngàn USD trong khi Mỹ - 230 ngàn USD, Trung Quốc 88,8 ngàn USD, Nhật Bản – 164,5 ngàn USD.
Trong báo cáo khoa học 2005 của UNESCO có nêu rõ rằng trong năm 2002, thế giới chi cho các mục tiêu khoa học 1,7% tổng sản phẩm quốc nội, tương đương với 830 tỷ USD. Đồng thời, tiền vốn chi cho khoa học được phân phối không đồng đều. Mức chi tiêu nhiều nhất ở Bắc Mỹ chiếm 37% tổng số chi của toàn thế giới. Châu Á đứng hàng thứ hai 31,5%, châu Âu thứ ba 27,3%, Mỹ la tinh và các nước vùng Caribee 2,6T, châu Phi 0,6%. Trong những năm gần đây, chi phí cho nghiên cứu khoa học của Mỹ và Canada giảm đi chút ít (năm 1997, các nước này chiếm 38,2 tổng chi phí của toàn thế giới). Ở châu Á, có tỷ lệ chi phí tăng. Đài Loan, Xingapo và Hàn Quốc chi cho khoa học trên 2% tổng sản phẩm quốc nội, theo sát có Ấn Độ.
Các nước công nghiệp phát triển thu được hiệu quả tối đa của vốn đầu tư vào khoa học. Các nước nghèo chỉ chiếm trên 7% tổng số bằng phát minh sáng chế được cấp trên thế giới mặc dù chi phí cho khoa học và công nghệ của họ chiếm 22% tổng số chi tiêu trên thế giới.
Bản báo cáo của UNESCO cũng nêu rõ rằng, ở phần lớn các nước công nghiệp phát triển, nhà nước đảm bảo trên 45% ngân sách khoa học, số vốn còn lại là doanh nghiệp chịu. Chẳng hạn năm 2002, các hãng tư nhân đảm bảo 66% vốn đầu tư cho khoa học và thực hiện 72% các công trình nghiên cứu khoa học. Tại Pháp, doanh nghiệp chiếm 54% chi phí cho khoa học, Nhật Bản 69%, Ấn Độ không quá 23%, Thổ Nhĩ Kỳ 50%.
Trong khoảng thời gian từ 1990 đến 2004, tỷ trọng của Mỹ trong khoa học thế giới dần dần giảm sút, tỷ trọng của EU và các nước vùng châu Á – Thái Bình Dương (Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan, Ôxtrâylia...) ngược lại tăng lên.
Tính đến cuối năm 2004, Mỹ chiếm chừng 33% tổng số công trình nghiên cứu khoa học (năm 1990 – 38%), EU - chừng 37 % (32% tương ứng), vùng châu Á-Thái Bình Dương – 23% (15%). Các nhà khoa học Nga đã công bố được một lượng công trình nghiên cứu chiếm 3,6% tổng số nghiên cứu khoa học trên thế giới, còn các nhà khoa học của 14 nước hình thành sau khi Liên Xô tan rã chỉ chiếm 1%.
Trung Quốc vừa công bố kế hoạch đầu tư cho nghiên cứu và phát triển lên tới 111,1 tỷ USD từ nay đến năm 2020. Trong 15 năm nữa, tỷ lệ này chiếm 2,5% GDP. Trung Quốc sẽ sánh vai cùng hai quốc gia chi cho nghiên cứu và phát triển mạnh nhất là Mỹ và Nhật Bản. Trong 15 năm tới, Trung Quốc xác định đẩy mạnh nghiên cứu protein, nano và sự sinh sản, các ngành dược, công nghệ gen và các công nghệ sinh học thế giới mới cũng được coi là các ngành công nghệ mũi nhọn.
Năm 2004, các nhà khoa học châu Âu công bố trên các tạp chí của thế giới chừng 38% tổng số công trình khoa học, các nhà khoa học Mỹ - gần 33%, các nhà khoa học vùng châu Á-Thái Bình Dương – trên 25%. Các nhà khoa học châu Á hoạt động có hiệu quả nhất trong ngành vật lý, vật liệu, luyện kim và điện tử. Các nhà khoa học châu Âu lại xuất sắc trong các công trình nghiên cứu về bệnh khớp, vũ trụ, nội tiết học và huyết học. Các nhà khoa học Mỹ rất thành công trong nghiên cứu lĩnh vực xã hội, hàng không vũ trụ và sinh học.
10 nước công bố nhiều công trình khoa học nhất trong thời kỳ 1990 – 2005 có Mỹ, Anh (tính riêng Xcôtlen không thuộc nhóm 10 nước), Đức, Nhật, Pháp, Canađa, Italia, Hà Lan Ôxtrâylia và Thụy Sỹ.
Có ý kiến cho rằng ưu thế của châu Âu so với Mỹ về số lượng các công trình nghiên cứu được công bố là thổi phồng. Các nhà khoa học Mỹ vẫn hiển nhiên đi đầu số lượng các công trình nghiên cứu được công bố trên các ấn phẩm khoa học và về mức độ chúng được trích dẫn. Ngoài ra một phần đáng kể của các công trình nghiên cứu của Mỹ không được cung cấp cho giới khoa học rộng rãi vì tới 50% chi phí của Mỹ cho khoa học và công nghệ là thuộc lĩnh vực quân sự.
Có 2 nhà khoa học Nga nằm trong danh sách 20 nhà khoa học có công trình được trích dẫn nhiều nhất trong năm 2005. Đó là Semen Ejdelman làm ở Viện Vật lý hạt nhân mang tên G.I. Budker ở Novosibirsk, Valerij Florow ở Viện công nghệ California, cả hai đều là nhà vật lý. Trong số 20 nhà khoa học đó, có 10 người đang làm việc ở Mỹ, 6 người làm việc ở Nhật Bản còn ở Nga, Đức, Anh và Hàn Quốc, mỗi nơi có một người.
Năm 2005, Nhật là nước nhận được nhiều bằng phát minh sáng chế nhất 300,6 ngàn bằng, Mỹ gần 150 ngàn, Đức 47,6 ngàn, Trung Quốc 40, 8 ngàn, Hàn Quốc 32,5 ngàn, Nga 14,7 ngàn, Pháp 11,4 ngàn, Anh 10,4 ngàn, Đài Loan 4,9 ngàn, Italia 3,7 ngàn bằng được cấp trong lĩnh vực máy tính. Ba lĩnh vực có nhiều nhất là máy tính, điện thoại và truyền dữ liệu (6,73%) và thiết bị ngoại vi máy tính (6,22%).
Trong thời đại hoàng kim của sự phát triển khoa học kỹ thuật mà Trung Quốc đã đạt được từ năm 1980, nhiều vấn đề kỹ thuật then chốt của sự phát triển kinh tế, xã hội đã được giải quyết nhờ nghiên cứu khoa học phối hợp với việc đưa vào áp dụng công nghệ và tiến bộ nước ngoài. Từ năm 1981, nghiên cứu khoa học của Trung Quốc đã đạt được 583.000 phát minh khoa học và kỹ thuật quan trọng. Năm 2004, kết quả nghiên cứu khoa học cấp tỉnh và bộ đạt tới 29.870, trong đó 2.029 liên quan tới lý thuyết cơ bản, 26.245 kỹ thuật và 1.416 về công nghệ phần mềm. Năm 2004, Trung Quốc đã đạt 92.352 luận án khoa học, bằng 5,1% toàn bộ số luận án khoa học của thế giới. Số đơn nộp xin cấp bằng sáng chế cũng tăng mạnh, năm 2004 đã có hai triệu đơn được gửi. Cơ quan sở hữu trí tuệ quốc gia đã tiếp nhận hơn 350.000 đơn và đã cấp 190.000 bằng sáng chế trong năm 2004, tăng 4,4% so với năm 2003. Số đơn xin cấp bằng sáng chế liên quan tới công nghệ nano cũng đặc biệt tăng nhanh cho thấy Trung Quốc là một trong mấy nước bắt đầu tập trung vào vật liệu nano từ những năm 1990. Ngày nay đã có 2.400 bằng sáng chế về công nghệ nano được cấp, chiếm 12% tổng số bằng sáng chế về loại này trên thế giới, xếp thứ ba trên thế giới.
Năm 2005, Trung Quốc đã có 2.452 đơn xin cấp bằng sáng chế đưa nước này vọt lên đứng thứ 10 trong các nước có bằng phát minh nhiều nhất thế giới. Tổ chức sở hữu trí tuệ Thế giới (WIPO) cũng cho biết năm nước đứng đầu vẫn tiếp tục là Mỹ, Nhật Bản, Đức, Pháp và Anh. Trong năm 2005 số đơn xin cấp bằng sáng chế của Singapore là 438, của Thái Lan và 10, Malaysia là 33, Indonesia là 12, Philippin là 35 trong khi của Việt Nam là 1. Số đơn xin cấp bằng sáng chế của Việt Nam nộp trong các năm 2002, 2003, 2004 và 2005 cũng rất ít, lần lượt và 2, 7, 2 và 1. Đơn duy nhất của Việt Nam trong năm 2005 là của Trung tâm nghiên cứu và phát triển khu công nghệ cao thành phố Hồ Chí Minh. Giám đốc trung tâm, tiến sĩ Nguyễn Chánh Khê giải thích có ít đơn đăng ký không có nghĩa là Việt Nam không có nhiều sáng chế, phát minh mới nhưng đây cũng là một công việc khá phức tạp và tốn kém.
Nhà vật lý Mỹ James Huebner, nhân viên của Trung tâm nghiên cứu quân sự Naval Air Warfare Center năm 2005 nêu ra giả thiết đối lập với những quan niệm vẫn được thừa nhận trước đó. Theo ông, tiến bộ kỹ thuật đã đạt đến đỉnh vào năm 1915 và sau đó cũng đột ngột chững lại. Kết luận này đưa ra là do ông sử dụng bản liệt kê 7,2 ngàn phát minh và cải tiến lớn nhất (được nêu trong bách khoa thư Lịch sử khoa học và công nghệ) rồi so với sự phát triển của dân số thế giới (chẳng hạn, bánh xe đã được sáng chế ra khi dân số không quá 10 triệu người) thì đỉnh cao về số lượng sáng chế phát minh là 1873. Tiêu chuẩn thứ hai là thống kê bằng phát minh sáng chế ở Mỹ cũng được so sánh với dân số Mỹ và số bằng sáng chế được cấp đạt cao nhất vào năm 1912. Theo Huebner, số bằng sáng chế và cải tiến trên chỉ ngang bằng thời kỳ của cái gọi là “những thế kỷ tối tăm” (thời kỳ lịch sử châu Âu bắt đầu sau khi Đế chế La Mã sụp đổ và kéo dài cho đến tận thời đại Phục Hưng)...
Nguồn: Trí thức và phát triển,số 1, 9/2006







