Tình hình sản xuất khoai tây tại Lâm Đồng
I. Các giống khoai tây và phẩm cấp giống
1. Giống khoai tây chế biến và giống khoai tây ăn tươi
* Giống khoai tây ăn tươi dùng để nấu nướng (chủ yếu tiêu thụ nội địa);
* Giống khoai tây chế biến dùng để ăn tươi và chế biến thành một số sản phẩm như chips (khoai tây chiên giòn đóng gói); bột dinh dưỡng cho trẻ em; sấy khô; thức ăn chăn nuôi. Nguồn tiêu thụ của giống khoai tây này là cả nội địa và xuất khẩu.
Hiện nay trên thế giới, sản lượng khoai tây tiêu thụ chủ yếu là giống khoai tây chế biến (3/4), 1/4 còn lại là giống khoai tây ăn tươi.
2. Giống khoai tây Đà Lạt - Lâm Đồng
* 07 (Utatlan) - Giống ăn tươi
Nguồn gốc: CIP
Đặc điểm: da hồng, ruột vàng, mắt cạn, củ tròn;
Khả năng kháng bệnh Phythothera, mốc sương ở mức trung bình, độ đồng đều cao;
Thời gian sinh trưởng: 3,5-4 tháng
Năng suất: 30-35 tấn/ha
Cấy mô: 0,3-0,5 kg/cây cấy mô, chủ yếu là lấy giống G1.
0,8-1,0 kg/1 củ giống G1
1,0-1,2 kg/1 củ giống G2
1-1,3 kg/1 củ G3 - bỏ giống G4
Nông dân Đà Lạt trồng giống 07 chiếm 80%.
* 06 Giống ăn tươi
Nguồn gốc: CIP
Đặc điểm: Da vàng, ruột vàng, củ tròn, mắt cạn
Khả năng kháng bệnh mốc sương: kém
Thời gian sinh trưởng: 3 tháng
Năng suất: 15-20 tấn/ha
0,200-0,300 g/1 cây mô
0,5-0,6 kg/1 củ giống G1
0,7-0,9 kg/ củ giống G2
0,8-1 kg/1 củ giống G3, bỏ giống G4.
Nông dân Đà Lạt trồng giống 06 chiếm 15%.
* PO3 - Giống chế biến
Nguồn gốc: CIP
Đặc điểm: da vàng, ruột vàng, củ tròn hoặc oval, mắt cạn có phớt hồng. Củ rất đồng đều (thuận tiện cho máy móc chế biến)
Thời gian sinh trưởng: 2,5-3 tháng
Khả năng kháng bệnh mốc sương: tốt
Năng suất: 40-45 tấn/ha
0,5-0,6 kg/1 cây mô
1,2-1,8 kg/1 củ giống G1
1,5-2,1 kg/1 củ giống G2
Nông dân Đà Lạt trồng giống PO3 chiếm 20%.
Đây là giống mới do Trung tâm nghiên cứu khoai tây, rau và hoa khảo nghiệm liên tục 3 năm qua tại 2 vùng Vạn Thành và Xuân Thọ. Giống khoai PO3 rất có triển vọng cho xuất khẩu, là giống khoai tây chế biến duy nhất hiện nay của Đà Lạt.
Tuy nhiên, theo tập quán suy nghĩ của người dân Đà Lạt. Từ lâu, Đà Lạt nổi tiếng là vùng rau hoa cao cấp của nước Việt Nam , do đó khoai tây Đà Lạt là khoai tây ngon. Và vô tình, màu hồng đã trở thành “thương hiệu” của khoai tây Đà Lạt.
Còn khoai tây da vàng lại được hiểu là khoai tây Trung Quốc (có sử dụng hoá chất để bảo quản nên rất độc) và là khoai của miền Bắc nên không ngon dù cũng được trồng tại Đà Lạt – Lâm Đồng.
Vì vậy, khoai tây da vàng (dù là giống gì) thì giá vẫn thấp hơn và khó bán hơn khoai tây da hồng. Chính vì lí do này, nhiều người buôn khoai đã “nhuộm đỏ” các giống khoai tây da vàng bằng đất.
3. Giống khoai tây miền Bắc
Từ năm 2000, dự án Khoai tây Việt - Đức đã cung cấp những giống khoai tây chế biến nổi tiếng thế giới cho miền Bắc.
* Mariella (Việt Đức 2): giống chế biến; đã được trồng tại Đà Lạt cách đây 20 năm (khoai tây Đông Đức). Hiện nay nông dân Đà Lạt đã bỏ giống này.
Nguồn gốc: Đức
Đặc điểm: da vàng, ruột vàng nhạt, củ oval, mắt cạn.
Thời gian sinh trưởng: 2,5-3 tháng
Khả năng chịu bệnh mốc sương: trung bình
Năng suất cao, độ đồng đều cao.
* Diamant
Nguồn gốc: Hà Lan
Đặc điểm: da vàng, có đốm nhỏ màu nâu, ruột vàng, mắt cạn
Thời gian sinh trưởng: 2,5 tháng
Khả năng chịu bệnh mốc sương: kém
Thoái hoá nhanh (nên chỉ đến G2 là bỏ giống)
Độ đồng đều cao.
* KT3
Củ tròn, vỏ vàng nhạt, ruột vàng, mắt sâu màu hồng, độ đồng đều cao.
Thời gian sinh trưởng 2,5-3 tháng
Khả năng chịu bệnh mốc sương: trung bình
Thoái hoá: chậm
* Solara (của Đức) và B4 (của Trung Quốc) : hai giống này mới nhập vào Việt Nam và hiện nay chưa có khảo nghiệm.
Nhìn chung 5 giống khoai tây chế biến trên tuy nổi tiếng thế giới (với phẩm chất ngon, năng suất cao) nhưng khả năng chống chịu bệnh mốc sương không được cao nên chủ yếu chỉ trồng vào vụ Đông Xuân, và phù hợp với thời vụ nghiêm ngặt của miền Bắc (xuống giống từ tháng 10-12).
Chúng ta có thể thấy rõ, Lâm Đồng và miền Bắc có hai hệ thống giống hoàn toàn khác nhau. Tại Lâm Đồng, việc cung cấp giống sạch bệnh cho địa phương được làm hoàn toàn bằng phương pháp cấy mô; còn tại miền Bắc, giống lại được nhập từ các nước Trung Quốc, Hà Lan, Đức và CIP. Hiện nay, theo chương trình ủng hộ của Đức, miền Bắc đang sản xuất và trồng củ bi ống nghiệm để có giống sạch bệnh cung cấp cho nông dân đồng bằng Bắc bộ.
4. Phẩm cấp giống
- Siêu nguyên chủng (Microtuber): củ bi được sản xuất trong ống nghiệm và phải qua test Elisa;
- Giống nguyên chủng (Minituber): củ bi được sản xuất trong nhà nylon từ củ bi ống nghiệm hay cây ống nghiệm.
Cả hai giống trên đều được các phòng thí nghiệm thực hiện.
- Giống cây mô (Đà Lạt): sản xuất từ vườn ươm;
- Giống xác nhận (G1 - G2 - G3): nông dân.
II. Tình hình sản xuất và tiêu thụ khoai tây tại Lâm Đồng
* Diện tích trồng khoai tây tại Lâm Đồng hiện nay khoảng 100-150ha/năm và được trồng theo phương thức luân canh.
Do có khí hậu và thiên nhiên thích hợp cộng với trình độ kỹ thuật tương đối cao và ứng dụng nhanh trong sản xuất nên công nghệ sinh học ở Lâm Đồng - Đà Lạt đã phát triển rất nhanh trên nhiều loại cây trồng (hoa, cây dược liệu, dâu tây).
Riêng khoai tây đã được ứng ụng trên 25 năm nay, do đó người nông dân đã làm quen với cây cấy mô từ rất lâu. Và hiện nay, do áp dụng biện pháp thâm canh, từ cây mô đã sản xuất được củ thương phẩm chứ không chỉ sản xuất được củ giống như trước kia. Kỹ thuật này đã giúp cho nông dân:
- Chủ động được giống cây trồng.
- Không cần để giống, do đó giảm chi phí và hao hụt trong quá trình bảo quản giống trong kho.
* Hiện nay, hoạt động của các phòng nuôi cấy mô của nhà nước và tư nhân không đủ cung cấp cho thị trường; phẩm chất cây giống không được quản lý và kiểm tra; sản xuất không có định hướng, tràn lan.
* Theo tính chủ quan, người nông dân Đà Lạt chỉ sản xuất giống khoai hồng (giống khoai ăn tươi), do đó thị trường tiêu thụ chủ yếu là nội địa. Đồng thời, khoai tây tại Đà Lạt được trồng rải đều các tháng trong năm, sản lượng khoai lại không cao vào mùa mưa. Giá khoai tây vụ hè thu trên thị trường cao (gấp 1,5-2 lần so với gạo).
III. So sánh tiềm năng sản xuất khoai tây giữa Lâm Đồng và miền Bắc
Tại miền Bắc, khoai tây được trồng trong các tháng 10, 11, 12, cho thu hoạc vào tháng 1, 2, 3.
* Diện tích trồng: 250.000-350.000 ha/năm.
Khoai tây miền Bắc được sản xuất theo thời vụ (Đông Xuân) do đó cần 1 lượng giống rất lớn (từ 300-500 tấn/năm).
* Thời gian giữ giống thông thường là 9 tháng, do đó không đảm bảo yêu cầu. Giống đạt yêu cầu phải được bảo quản trong kho lạnh với thời gian là 6 tháng. Nhưng giá giống lại quá cao 10.000-12.000 đ/kg.
Do đó, giống khoai tây ở miền Bắc chủ yếu được nhập nội từ Trung Quốc và các nước khác với giá từ 3.000-5.000 đ/kg (giống G1). Sau đó được sản xuất đồng loạt với một sản lượng lớn giống khoai tây chế biến nên giá rẻ (chỉ bằng 1 kg gạo hoặc thấp hơn). Thị trường tiêu thụ chủ yếu là xuất khẩu (50-70%), ăn tươi nội địa chiếm 20%.
Hiện nay, miền Bắc có khoảng 18 phòng nuôi cấy mô của nhà nước và các trường đại học nhưng chỉ có 2 phòng hoạt động cầm chừng (do Dự án khoai tây Việt Đức tài trợ kinh phí): 1 phòng ở Ba Vì, 1 phòng tại trường Đại học Nông nghiệp 1.
Chi phí cho các phòng thí nghiệm này quá lớn nên giá thành sản phẩm tương đối cao. Ví dụ: giá khoai tây Microtuber ở Đà Lạt là 1.000 đ/củ, ở miền Bắc phải lên đến 1.200-1.400 đ/củ. Nguyên nhân chính là do thiên nhiên nơi đây không được thuận lợi, tiêu thụ điện tương đối nhiều; bên cạnh đó những người làm phòng thí nghiệm chưa có nhiều kinh nghiệm trong lĩnh vực này cộng với việc người nông dân chưa tiếp cận được với kỹ thuật mới.
Tại Đà Lạt, khoai tây có thể được trồng quanh năm. Vào các tháng mùa mưa từ thứng 5-8, việc lấy giống khoai tây sẽ được trồng trong nhà nylon để đảm bảo yêu cầu. Lâm Đồng có rất nhiều tiềm năng (người dân đã có nhiều kinh nghiệm trong lĩnh vực này, khí hậu thiên nhiên thích hợp,…) để trở thành vùng chuyên canh giống, cung cấp giống sạch cho miền Bắc. Tuy nhiên, hiện nay Lâm Đồng chưa có phòng test virus để phục vụ cho việc sản xuất giống sạch bệnh. Nếu Lâm Đồng được trang bị thêm phòng test virus thì sẽ có khả năng chúng ta tự cung cấp giống cho cả miền Bắc, không phải nhập khẩu giống từ nước ngoài nữa.
IV. Một số kiến nghị
- Để phát triển tiềm năng của mình, tỉnh Lâm Đồng nên trang bị 1 phòng test virus thuộc sự quản lý của nhà nước để hỗ trợ cho các phòng nuôi cấy mô. Để nhân nhanh bất cứ giống cây trồng nào bằng phương pháp cấy mô thì việc test virus trước khi nhân cấy là đặc biệt quan trọng.
- Tiếp tục sản xuất giống khoai tây ăn tươi 07 của Đà Lạt vì nó đã nổi tiếng, được thị trường tiêu thụ ưa chuộng.
- Tiến hành khảo nghiệm các giống khoai tây chế biến của miền Bắc như Diamant, Mariella, Solara, B4 với giống khoai tây chế biến PO3 của Đà Lạt. Từ đó thiết lập 1 hệ thống giống đồng nhất của cả 2 miền, tiến tới việc đưa Đà Lạt trở thành 1 vùng chuyên canh giống khoai tây nổi tiếng của Việt Nam.
- Xúc tiến việc mở rộng thị trường tiêu thụ của Lâm Đồng, không chỉ tiêu thụ nội địa mà cả xuất khẩu.
Vừa qua, TS. Cay O. Mentz (thuộc Chương trình khoai tây Việt Đức) đã đến thăm Lâm Đồng. Ông rất tán đồng với ý kiến đưa Lâm Đồng trở thành vùng sản xuất chuyên canh giống khoai tây sạch bệnh. Ông đã hứa sẽ giúp Lâm Đồng trong việc đào tạo cán bộ kỹ thuật làm việc trong phòng test virus. Ông cũng đã tặng cho tỉnh Lâm Đồng 4 giống khoai tây chế biến nổi tiếng của thế giới: Solara (microtuber, ống nghiệm); Diamant (ống nghiệm); Mariella (ống nghiệm); B4 (minituber), cả 4 giống đã được qua test Elisa. Đây sẽ là nguồn gen quý cho ngân hàng giống khoai tây Lâm Đồng.
Nguồn: Thông tin KH&CN, số 3, 2005







