Tìm hiểu biến đổi của sông Tô Lịch qua chuyện cũ bên dòng sông Tô
Năm 1719 - niên hiệu Lê triều, năm Vĩnh Thịnh thứ 15
Sông Tô Lịch, điểm khởi nguồn, hướng chảy, nơi hợp lưu của dòng sông
Sông Tô Lịch bắt nguồn từ Kẻ Chợ, cửa sông thông với Nhĩ Hà, nay gọi là sông Hồng, sau khi chui qua cống Vũ, sát Ô Quan Chưởng, sông hướng về mạn tây dọc theo các phố Hàng Chiếu, Phố Mới (1), luồn qua cầu đá Đông Hà gần Hàng Đường, tới chợ Hàng Cá thì hướng lên phía bắc mà nhập vào hào thành Thăng Long. Đến góc tây bắc thành, gần Trấn Võ quán, tục gọi là đền Quán Thánh, sông rời khỏi hào thành, trở lại dòng chảy riêng biệt, men theo đê La Thành cách bờ nam hồ Tây bằng con đường lên Bưởi. Tới địa phận làng Hồ Khẩu, sông Tô tách một nhánh qua cống Đỗ để thông với nước hồ Tây. Quá chợ Bưởi một đoạn ngắn, sông theo hướng nam chảy qua quãng đồng bát ngát, tới Cầu Giấy, sông men theo các làng Kẻ Láng, Mọc, Lủ, Quang. Tại đây sông Tô lại sẻ một nhánh thông với sông Nhuệ thuộc địa phận làng Tó, còn dòng chính hướng về đông nam qua Kẻ Ngâu, tới ranh giới xã Lưu Phái, Ngọc Hồi, đoạn gặp đường thiên lý, sông ngoặt hướng đông, rạch đôi đồng đất vùng này để Tương Trúc, Tự Khoát, Kẻ Nhót, Hạ Thái, Kẻ Giường nằm về bên tả, còn Kẻ Om, Kẻ Chõ ở về bên hữu dòng sông. Từ đây sông Tô theo hướng tây nam qua quê hương Nguyễn Trãi, làng Nhị Khê, đi hết địa phận làng Quèn tới Dưỡng Hiền hì nhập vào sông Nhuệ.
Năm 1725 - năm Bảo Thái thứ 6
Cảnh buôn bán tấp nập, trên bến dưới thuyền tại Thăng Long - Kẻ Chợ
Thời Lê mạt, sông Tô Lịch là tuyến giao thông thủy rất thuận lợi cho sự buôn bán giữa phố phường Kẻ Chợ với vùng giáp ranh và xa hơn nữa. Hàng hóa trong nước và của khách buôn ngoại quốc từ tàu, thuyến lớn trên Nhĩ Hà được chuyển sang đò con, đưa vào trong phố. Thông qua một hệ thống mương, ngòi, hồ đầm, liên thông với sông Tô Lịch, sông Kim Ngưu, hàng hóa xuôi về mạn nam, tới trấn Sơn Nam. Theo sông Thiên Phù, hàng ngược lên phía bắc, đến trấn Sơn Tây. Giữa phố phường Kẻ Chợ có đường trục bắc nam gồm các phố Hàng Than, Hàng Giấy, Hàng Gạo, Hàng Đường, Hàng Lam và Hàng Đào. Song hành với các tuyến phố này, chếch về phía đông là một chuỗi các hồ thông nhau, mang tên phố như hồ Hàng Than, hồ Hàng Buồm, hồ Hàng Bạc (còn gọi là hồ Sao Sa), hồ Hàng Đào (còn gọi là hồ Thái Cực). Hồ Thái Cực có ngòi thông với hồ lớn Thủy Quân, hồ này gồm hai phần, phần phía bắc là hồ Tả Vọng, tức hồ Hoàn Kiếm, phía nam là hồ Hữu Vọng, còn gọi là hồ Hàng Chuối. Hồ Hàng Chuối chảy vào sông Kim Ngưu, còn hồ Hàng Than thông với sông Thiên Phù qua các hồ Hàng Bún, hồ Trúc Bạch và Hồ Tây.
Khách từ các vùng Ngã ba Hạc hay Lục Đầu Giang, theo đường thủy đến Kẻ Chợ, thường xuống bến ô Quan Chưởng, hoặc sang đò qua cống Vũ vào sông Tô để lên phố hay vào chợ. Do đường thủy thuận tiện, đò dọc có thể vào tận cửa chợ hay đầu phố, nên cánh lái buôn đỡ hẳn được một phần gồng gánh, mang vác. Khách buôn châu Âu đến Kẻ Chợ, vào thế kỷ XVII, XVIII, đã ví nơi đây với thành Venise của nước Ý, được xây dựng trên một đám đảo nhỏ, gần bờ biển, thường phải dùng thuyền qua lại các phố.
Năm 1792 - năm Quang Trung thứu 5
Một đám rước dâu trên sông và sự suy thoái của dòng sông Tô
Chiều hôm Rằm tháng Tám, tại bến đá Cầu Đông, đò thuyện đậu chi chít như lá tre. Không phải người mua sắm tết đông hơn mấy bữa trước, mà vì, vào chập tối dân Kẻ Chợ thường mướn thuyền, mang theo bánh trái, trà nước, cùng gia đình, bạn hữu, ngắm trăng thu trên sóng nước Tô giang. Mùa này nước sông đầy ăm ắp, ngồi trên thuyền không những có thể thấy đèn trong phố, xem rồng và sư tử diễn qua, mà còn được ngắm những cây bông ngũ sắc cùng pháo thăng thiên đốt ở hai bên bờ. Bởi thế, bữa nay rất nhiều thuyền câu ở ngoại ô, được cọ rửa sạch sẽ, trải chiếu hoa, đưa vào phố phường đón khách ngắm trăng.
Hơn chục năm qua, loạn lạc liên tiếp ở Thăng Long, đến nay vua Quang Trung lại thiên đô vào Phú Xuân, sông Tô Lịch không được nạo vét thường xuyên, về mùa cạn chỉ những thuyền nhỏ mới qua lại được. Tháng Tám là mùa nước to, nên đám cưới cậu Tú Cả con bà Đốc trấn, ở phố Diên Hưng, mới thuê được thuyền cỡ lớn, chở hơn chục người.
Sau khi bà Đốc trấn cùng bà mối đi xin dâu về, họ nhà trai nam nữ hơn chục người, ra bến Cầu Đông Hàng Đường, cách hiệu Diên Thái hơn dăm trăm bước. Hai chiếc thuyền trải chiếu hoa, có mui che, chờ sẵn cạnh thềm lát đá bên sông. Một chiếc chở nam giới, trong đó có chú rể, đi trước, chiếc kia chở nữ giới cùng các cháu nhỏ, đi sau. Đoàn thuyền khởi hành khoảng đầu giờ Mùi, đúng như dự định.
Còn thuyền dầm mớn, dùng bơi chèo không tiện, lại đi trong phố phường khuất gió, không thể giương buồn, nên phải dùng phu thuyền. Phu kéo thuyền đám cưới đều là những trai tráng khỏe mạnh, ăn mặc tươm tất.
Đi được một quãng sông, thuyền đã vào đến hào thành, ngoặt về hướng nam, qua cửa Đông Hoa, cửa Đại Hưng, đến góc tây nam, thuyền rẽ vào ngòi Bích Câu, thoe dòng nước biếc, qua đền Tú Uyên khoảng dăm trăm bước đã tới cổng tư thất Bá tước Nguyễn Quốc Cơ.
Năm 1877 - năm Tự Đức thứ 30
Sông Tô Lịch trong phạm vi Thăng Long - Kẻ Chợ tiếp tục cạn dần
Cũng trong cảnh hỗn quân hỗn quan, phố phường Kẻ Chợ cũng mất ăn, mất ngủ vì nạn trộm cướp hoành hành. Hàng Ngang có nhiều nhà giàu cùng cửa hiệu khách trú buôn bán lớn, họ bảo nhau góp tiền tu bổ, gia cố lại đôi cổng gạch trấn hai đầu phố, cứ đến chập tối là đóng kín cửa, nội bất xuất, ngoại bất nhập. Phố Hàng Đường, Cầu Đông toàn nhà buôn nhỏ, không đủ lực xây gạch kiên cố. Đường vào phố Cầu Đông chỉ rào bằng tre, lối lên cầu được đắp đất, phủ thành một bức lũy cao dày, chỉ để một lối đi hẹp lên cầu Đông Hà, đến chập tối, đầu cầu được đóng kín bằng tấm cửa gỗ. Tuy được phòng bị là vậy nhưng ở gần sông Tô Lịch, là con đường thuận tiện cho bọn cướp đi về, phố Cầu Đông luôn ở vào vị thế nguy hiểm.
Cuối năm Bính Tý (1876), vào tháng củ mật bọn cướp đầu trọc kéo về làm dữ! Sông Tô Lịch, sau ngót trăm năm không được nạo vét, đã cạn nhiều, lại đương mùa khô, lòng sông chỉ như một đường hào, chẳng có lỗi cho thuyền bè đi lại. Để vào được trong phố, bọn cướp dùng thuyền thúng, chở hai tên một, từ sông Cái lẻn vào, đậu gần cầu Đông Hà. Chờ cho bóng đêm sập xuống, bọn cướp lên bộ, công nhiên đến quát tháo người phu điếm, bắt phải mở cổng cho chùng vào thu quân lương cho đức ông Lê hoàng tôn. Bác phu điếm vội chạy vào hô hoán hàng phố. Cậu Ba Trì thấy động vội bác cả mã tấu lẫn giáo dài, chạy ra phía lũy, qua nhà nào cũng đập cửa gọi trai tráng mang khí giới ra ứng chiến.
Năm 1935 - năm Bảo Đại thứ 10
Đoạn kết của sông Tô Lịch trong lòng Hà Nội
Chào mà đi, bà An Hợp qua hết phố Hàng Đường, sang chợ Đồng Xuân rồi vào Hàng Lược nhưng bà đi sang hè phố tay trái, vì hè tay phải men theo đường cống ngõ, nước chảy đen kịt, bốc mùi hôi thối. Đây là vết tích còn lại của sông Tô, nay chỉ còn là đường cống thoát nước bẩn của thành phố. Con sông cũ đã bị lấp kín cho đến chỗ cống vắt chéo qua đường Hàng Khoai, nhưng lại để hở ở đoạn đầu Hàng Lược, phía giáo chùa Tây đen (tức đền thờ Hồi giáo, ở phố Hàng Lược).
Người xưa thường dùng hình tượng vật đổi sao dời để ám chỉ sự biến động của đất tời, nhiều khi làm thay đổi cả nhân gian. Có phải vì thế mà trải qua những cuộc bể dâu, nhiều địa danh cùng vô số cảnh quan thơ mộng của đất Kẻ Chợ - Thăng Long, trong đó có đoạn sông Tô Lịch, đã thất lạc cả hình hài mà chìm dần vào quên lãng! Hy vọng Chuyện cũ bên dòng sông Tôsẽ đưa người đọc trở về với miền quá khứ, gợi lại chút gì để vương vấn, bâng khuâng.§
Nguyễn Vĩnh Lộc
(giới thiệu và trích dẫn)
Chú thích:
1. Hàng Chiếu, Phố Mới: Những tên phố có trước thời Pháp thuộc Hàng Chiếu nay là phố Ô Quan Chưởng, Phố Mới nay là phố Hàng Chiếu.