Thuốc từ vàng và bạc
Đầu thế kỷ 20, trên cơ sở kinh nghiệm dân gian, người ta làm ra chất bạc keo (colloidal silver) và đã ứng dụng để điều trị nhiều bệnh lý viêm nhiễm ở các bộ phận trong cơ thể. Bạc keo là một dung dịch huyền phù gồm các hạt bạc rất nhỏ lơ lửng trong nước, được tạo thành bằng cách điện phân bạc trong nước cất. Nhờ kích thước nhỏ, bạc dễ dàng đi vào máu qua hệ thống dạ dày và ruột để đến các bộ phận trong cơ thể. Trung tâm y khoa Upstake, ĐH Syracuse đã chứng minh tính chất diệt vi khuẩn, vi nấm từ những thí nghiệm trong ống nghiệm và tính chất làm mau lành vết thương của bạc keo. Trạm vũ trụ MIR và trạm không gian quốc tế ISS đã dùng bạc hòa tan bằng điện phân để sát trùng nước uống.
Từ khi có các loại kháng sinh tổng hợp, vai trò của bạc đã phải dừng lại vì không cạnh tranh được về mặt giá cả và quan trọng hơn là những nghiên cứu về hiệu quả chưa được kiểm tra cẩn thận trong phòng thí nghiệm. Từ đó, bạc dần trở thành một chất dùng trong “y học dân gian”hay “y học thay thế”và mang những đặc điểm chung của một ngành y học “không chính thống” nhưng nặng về kinh nghiệm dân gian mà thiếu sự cách mạng bằng cơ sở khoa học và các phương tiện hiện đại. Tuy vậy, vào những năm 1990, bạc keo vẫn được sử dụng hợp pháp, nhưng các dữ liệu nghiên cứu vẫn chưa được hệ thống đúng mức. Gần đây, khi công nghệ nano ra đời và phát triển, bạc xuất hiện với một “chiếc áo mới” là bạc nanno (nano-silver). Tính kháng khuẩn của bột bạc nano cao gấp nhiều lần bạc keo, phạm vi sử dụng rộng hơn với những lợi ích hơn hẳn các loại kháng sinh tổng hợp.
Như trên đã nói, bạc không gây độc cho cơ thể nếu dùng đúng cách, nhưng phần lớn các muối bạc là độc và có thể gây ung thư. Các hợp chất chứa bạc hấp thu vào hệ tuần hoàn và trở thành các chất lắng đọng trong các mô khác nhau, gây nên các vệt màu xám tạm thời trên da và niêm mạc. Tình trạng này gọi là argyriavà chỉ ảnh hưởng xấu về mặt thẩm mỹ, không có hại cho sức khỏe.
Dược học cổ truyền phương Đông cho rằng vàng có vị cay, đắng, tính bình, có tác dụng trấn tâm, an thần, giải độc. Danh y Trung Quốc Lý Thời Trân trong “Bản thảo cương mục” đã nêu ra cách sử dụng vàng làm thuốc như sau: “vàng ròng được luyện thành các vảy mỏng dùng làm thuốc trị các bệnh thần kinh”.Tuệ Tĩnh trong “Nam dược thần hiệu” cho rằng vàng sống có độc, còn vàng đã tôi luyện thì không độc và dùng làm thuốc trấn tâm, an thần, bệnh cốt nhiệt và bệnh phong. Kinh nghiệm dân gian cho rằng bụi vàng khi đem nung đỏ và tôi vào nước có tác dụng chữa chứng co giật ở trẻ con. Các loại thuốc quí của Đông y thời xưa được bọc một lớp vỏ thật mỏng bằng vàng ròng, khi dùng người bệnh có thể nuốt cả vỏ. Thuật châm cứu cổ truyền còn dùng kim châm cứu làm bằng vàng (hoặc bạc) để trị bệnh, và cho rằng kim vàng có tác dụng “bổ” (bồi bổ) và kim bạc có tác dụng “tả” (trị bệnh).
Vàng được mọi thời đại tôn vinh là vua của các kim loại. Theo quan niệm của các nhà giả kim thuật thời xưa thì vàng tượng trưng cho Mặt trời, bạc tượng trưng cho Mặt trăng, mà mặt trời là trái tim của vũ trụ nên vàng được dùng làm thuốc trị bệnh… tim (!). Quan niệm này kéo dài đến những nền văn minh tiếp theo, coi vàng là biểu tượng của sức khỏe nên dùng vàng để chữa mọi thứ bệnh trên đời. Nhà bác học Robert Koch, người phát hiện ra trực khuẩn lao, đã từng dùng muối vàng (vàng cyanua) để chữa bệnh lao phổi. Cho đến khi khoa học tìm ra nhiều loại thuốc trị bệnh lao hiệu quả và rẻ tiền hơn thì các loại thuốc có nguồn gốc từ vàng đã dần lui vào dĩ vãng.
Sau này, người ta còn dùng các loại muối vàng chữa các bệnh lý về cơ xương khớp. Báo cáo khoa học đầu tiên về tác dụng của muối vàng làm chậm tiến trình thoái hóa khớp và giảm viêm khớp là từ năm 1935, trong đó, muối vàng được chỉ định cho những trường hợp viêm khớp không đáp ứng với thuốc khagns viêm, methotrexat. Theo dinh dưỡng học hiện đại, vàng là một nguyên tố vi lượng cần thiết cho cơ thể (cũng như sắt, đồng, mangan,…) và đóng vai trò là tác nhân “thanh lọc cơ thể” bằng cách gắn kết với các chất độc hại cũng như thải trừ chúng ra ngoài cơ thể. Viện nghiên cứu khoa học quốc gia Pháp đã nghiên cứu dùng hạt nano vàng làm thuốc diệt tế bào ung thư. Các nghiên cứu cũng đã ghi nhận những người ăn vàng có thể giúp cơ thể duy trì sự hoạt bát, nhanh nhẹn, cường tráng và kéo dài tuổi thọ. Các tác dụng phụ ghi nhận được khi dùng muối vàng qua đường uống là nôn, buồn nôn, tiêu chảy.
Xem ra, những thông tin về tác dụng chữa bệnh của vàng bạc là có cơ sở khoa học. Tuy vậy, do sự mê tín của một bộ phận người dân nên đã có không ít trường hợp tiền mất tật mang vì dùng không đúng cách. Hơn nữa, hiện nay các loại thuốc thay thế đã rẻ hơn và đa dạng hơn, nên vàng cũng không còn được dùng nhiều như trước.








