Thước đo chính sách, phân tích từ một sự kiện đã qua
Chính sách phải đảm bảo tính khoa học
Thước đo nào đưa người ta đến phản đối, có thể phân tích từ sự kiện dư luận chỉ trích dữ dội Đề xuất Chiến lược Nhân sự, của thành phố Hà Nội, đến năm 2020, 100% cán bộ khối chính quyền diện Thành ủy Hà Nội quản lý có trình độ tiến sỹ, liên quan đến hai dấu hiệu dùng để đánh giá đo lường chính sách. Một là cơ sở khoa học của chiến lược đề xuất đó; phân tích đánh giá nó chính là phản biện, điều cần thiết để có thể khẳng định chính sách đưa ra có bảo đảm tính khoa học hay không.
Trong sự kiện trên, mấu chốt nằm ở khái niệm tiến sỹ, vốn được Giáo hoàng Honorius III trao lần đầu tiên trên thế giới vào năm 1219 tại Đại học tổng hợp Bologna, Ý; tiếng La tinh là Docere, dạng học vị cao nhất.
Ngày nay, học vị tiến sỹ có nhiều dạng, với danh vị tiến sỹ thường kèm trước danh xưng. Ở Mỹ và Canada người ta phân biệt học vị tiến sỹ nghề nghiệp (professional degrees), không cần làm luận án chỉ cần thi quốc gia, như trong ngành y, Medical Doctor, khác với loại tiến sỹ trải qua nghiên cứu phải làm luận án, như Doctor of Philosophy.
Ở Ý có 3 loại bằng cấp ở đại học, bằng laure cấp cho hệ 2-3 năm học; học chuyên sâu thêm 2 năm được cấp bằng laurea magistrale; làm luận án khoa học thêm 3 năm, được cấp bằng tiến sỹ nghiên cứu dottore di ricerca. Theo luật Ý, cả 2 bằng trứơc đó đều được kèm thêm danh vị dottore, dịch ra tiếng nước ngoài là tiến sỹ. Có nghĩa, tốt nghiệp đại học là tiến sỹ. Nên không lạ, năm 2009 này, tại qúôc hội tiểu bang Südtirol có tới 18 trên 32 nghị sỹ mang học vị tiến sỹ.
Tại Hà Lan cũng dễ nhầm lẫn vậy, danh vị tiến sỹ doctorandus (drs.) được dành cho tốt nghiệp thần học tương đương Masters of Arts ở Anh. Bác sỹ được công nhận học vị tiến sỹ, không phân biệt với học vị tiến sỹ các ngành khác.
Ở Bỉ có khác chút, luật quy định bác sỹ chỉ được công nhận tiến sỹ sau 7 năm học (tương đương bác sỹ chuyên khoa các nước) với kỳ thi qúôc gia đỗ. Còn tiến sỹ các ngành khác, nhất thiết phải qua bảo vệ luận án tiến sỹ. Đức và Bắc Âu, Phần Lan, Na Uy, Thụy Điển, Đan Mạch, tiến sỹ chỉ cấp cho người đã tốt nghiệp đại học làm luận án tiến sỹ, (ngoại trừ như ở Đức, ngành luật, y, thần học có thể làm luận án tiến sỹ khi chưa tốt nghiệp đại học, nhưng chỉ được phép bảo vệ sau khi tốt nghiệp).
Tại Đức, Áo, Thuỷ Điển... còn thêm tiến sỹ khoa học như ở ta, thường là điều kiện bắt buộc để được bổ nhiệm giáo sư, nên người ta gọi là tiến sỹ giảng dạy (Dr. Habil).
Không phức tạp như một số nước, học vị tiến sỹ ở ta nhất thiết phải qua bảo vệ luận án, tương đương tiến sỹ nghiên cứu ở Mỹ, các nứơc Bắc Âu. Trước đó họ phải có bằng đại học hay thạc sỹ.
Như vậy, người có bằng tiến sỹ, chắc chắn phải có trình độ học vấn nghiên cứu cao hơn khi người đó chỉ mới có bằng đại học. Từ đó có thể khẳng định, trong tuyển chọn nhân sự cấp đại học, với một nhóm ứng viên, giả sử mọi dấu hiệu tuyển chọn khác, họ đều ngang nhau, thì người có bằng tiến sỹ chắc chắn sẽ làm việc tốt hơn hoặc ít nhất cũng không thể kém hơn người không có bằng tiến sỹ.
Đó chính là cơ sở khoa học không thể phủ nhận của đề xuất chiến lược chọn nhân sự 100% tiến sỹ, được công bố.
Theo định nghĩa, tiến sỹ nghiên cứu là học vị cao nhất, với mục tiêu đào tạo trang bị cho họ kiến thức kỹ năng nghiên cứu khoa học độc lập; tuy nhiên từ đó không thể suy diễn, nghĩa là nhằm đào tạo cho viện nghiên cứu khoa học hay giảng dạy, không để làm lãnh đạo, như một số nhầm hiểu, cần được làm rõ.
Thế giới không có một bằng cấp đại học nào đào tạo con người để chỉ dùng cho một chỗ làm việc nhất định. Hai phạm trù học và làm khác nhau. Học là nói về kiến thức, học vấn được trang bị, chức năng của đào tạo, dù làm ở đâu sau này, thì trước đó cũng chỉ được trang bị kiến thức như vậy được quy định bởi mục tiêu đào tạo của ngành đó. Còn viện nghiên cứu hay nhà trường, doanh nghiệp, cơ quan nhà nứơc là nơi làm việc, cần cả một con người, không chỉ cần mỗi kiến thức họ được học, và do thoả thuận giữa chủ thuê việc và người nhận việc. Trường đại học, viện nghiên cứu nhất thiết cần tiến sỹ, nhưng tiến sỹ không có nghĩa phải làm ở đó mới đúng học vị, mà có thể làm ở bất cứ đâu, cần đến họ.
Tại Đức, trong 17 thành viên Chính phủ, xấp xỉ một nửa gồm Thủ tướng và 7 bộ trưởng có bằng tiến sỹ. Một số liệu khác, theo thống kê gần nhất, trong năm 2005, các trường đại học Đức cấp 25.700 bằng tiến sỹ. Đến nay, 1,3% của hơn 80 triệu dân số Đức có bằng tiến sỹ. Con số đó ở Mỹ là 1,5%. (bao nhiêu viện và trường đại học sử dụng hết con số tiến sỹ này ? nếu chỉ đào tạo nhằm làm việc ở những nơi đó).
Và người dân được hưởng lợi gì từ chính sách đó
![]() |
| Ảnh minh họa |
Dấu hiệu thứ 2 để đánh giá lựa chọn chính sách, dù bảo đảm căn cứ khoa học mức độ nào, là lợi ích nhà nước do chính sách đó đem lại so sánh với chi ngân sách để thực hiện nó, và lợi ích của người dân, những bộ phận nào được và mất gì từ chính sách đó.
Về lợi ích nhà nước, trong chiến lược trên, người ta học lên theo lẽ thường là để tìm được công việc có thu nhập cao; vì vậy, muốn sử dụng đội ngũ này làm việc toàn tâm toàn ý, qũy tiền lương trả cho 100% tiến sỹ chắc chắn phải lớn hơn trước nhiều, trong khi nhân sự thành ủy quản lý thực hiện nhiều công việc khác nhau không phải tất cả đều cần đến trình độ tiến sỹ.
Về lợi ích người dân, nói đến cán bộ thành ủy quản lý trước hết phải nói đến năng lực hoạt động chính trị, quản lý nhà nước của họ (không nhầm lẫn với bằng cấp chính trị); số vừa có năng lực hoạt động chính trị, quản lý nhà nước, vừa có trình độ tiến sỹ không nhiều, (đến chính phủ Đức cũng chỉ được tới 1 nửa), nên đặt ngưỡng phải có bằng tiến sỹ, vừa mặc nhiên phân biệt, loại trừ một bộ phận người không có bằng tiền sỹ ra khỏi chính sách ngay cả khi người đó hơn hẳn người có bằng tiến sỹ về năng lực hoạt động chính trị, quản lý nhà nước (có thể liên hệ tới hậu qủa chủ nghĩa lý lịch trong quá khứ), vừa từ đó đẩy xã hội vào tình thế phải chạy đua bằng cấp, nhằm vượt ngưỡng, bất chấp năng lực chính trị có hay không.
Tuy nhiên vấn đề mấu chốt cần bàn lại nằm ở câu hỏi, có cần một chiến lược nhân sự đóng khung theo một chủ đích định sẵn bằng cấp như vậy hay không, vốn chỉ thích hợp trong nền kinh tế tập trung, nhà nứơc kế hoạch hoá từ sản xuất đến tận tiêu dùng; nhân sự, lao động vì vậy cũng được kế hoạch hoá theo nguyên tắc cơ cấu?
Trong nền kinh tế thị trường, lao động hình thành nên thị trường nhân dụng, ở các nước hiện đại, quan hệ người lao động và chủ thuê việc (nhà nước, tổ chức, doanh nghiệp) được điều chỉnh bằng hợp đồng, do đó chức năng của nhà nước là tạo ra hành lang pháp lý cho các hợp đồng đó, kể cả đối với công chức các cấp chứ không thể cơ cấu duy ý chí.
Đối với các nhà chính trị, gồm các nhà hoạt động chuyên nghiệp về đảng, dân biểu các cấp, quan chức nhà nuớc được cơ quan dân cử bổ nhiệm, ở họ hoàn toàn do phiếu bầu hoặc của đảng viên (đối với bộ máy lãnh đạo đảng) hoặc của người dân (đối với cơ quan dân biểu) quyết định, bởi uy tín cá nhân của ứng viên, không thể kế hoạch hoá số phiếu đó, và càng không thể dùng ngưỡng loại trừ; bắt buộc các nhà chính trị luôn phải gắn bó với từng người dân (chứ không phải nhân dân chung chung).
Cần nhắc lại hiện tượng Phó Thủ hiến tiểu bang Niedersachsen gốc Việt Phillipp Rösler, 36 tuổi, tiến sỹ y khoa, một nghề không liên quan mấy đến chính trị, đang nổi trên chính trường Đức hiện nay, hoàn toàn không ai cơ cấu trước, và cũng không qua bất cứ trường lớp chính trị nào, mà do cả một quá trình hoạt động chính trị của ông, gắn bó với từng người dân, từ khi trong nhà trường.
Tương tự, các nhân sĩ, các nhà cách mạng lưu danh nước ta hoàn toàn không từ cơ cấu ai đó định sẵn, mà từ nhân dân ra!









