Thực thi chính sách, pháp luật về môi trường tại các khu kinh tế, làng nghề
Còn nhiều bất cập và ô nhiễm
Qua Báo cáo giám sát cho thấy, hệ thống văn bản pháp luật về bảo vệ môi trường (BVMT); các tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về môi trường có liên quan đến khu kinh tế, làng nghề đã được ban hành tương đối đầy đủ, tạo cơ sở pháp lý cần thiết cho việc quản lý và BVMT. Tuy nhiên, tiến độ thực hiện còn chậm, thiếu các quy định phù hợp với quản lý môi trường đặc thù của các khu kinh tế, làng nghề; một số quy định còn chồng chéo về thẩm quyền, trách nhiệm trong công tác quản lý, điều hành. Việc chỉ đạo, điều hành công tác BVMT chưa thực sự thường xuyên; thực thi pháp lật về BVMT tuy đã được quan tâm và đã có những kết quả nhất định nhưng vẫn còn không ít cơ sở chưa tuân thủ nghiêm, thực hiện không đầy đủ các nội dung cam kết.
Đối với khu kinh tế, qua đợt giám sát 15 khu kinh tế ven biển có thể thấy, khu kinh tế phát triển tương đối nhiều, nhưng chưa thực sự phù hợp với điều kiện kinh tế của các địa phương cũng như cả nước. Cơ sở phát triển kinh tế chưa đầu tư hài hòa và tương xứng với xây dựng hạ tầng BVMT. Một thực trạng dễ nhận thấy, rất ít khu kinh tế có khu xử lý nước thải tập trung hoặc có nhưng hiệu quả hoạt động hạn chế. Có nơi hệ thống xử lý nước thải chỉ hoạt động khi có đoàn thanh tra, kiểm tra. Môi trường đất, môi trường không khí bị ô nhiễm cục bộ ở các mức độ khác nhau do các hoạt độn giao thông vận tải, xây dựng, san lấp mặt bằng. Đặc biệt, là các khu kinh tế có các nhà máy xi măng, hóa chất, điện, chế biến thực phẩm…Bên cạnh đó, chất thải nguy hại thuộc các ngành nghề dày da, ắc quy, chế biến gỗ, thuốc bảo vệ thực vật, hóa chất…hầu hết đều vẫn tập kết tại cơ sở sản xuất chờ xử lý. Với sự phát triển của các khu kinh tế trong tương lai thì nguy cơ ô nhiễm môi trường sẽ là tất yếu. Đoàn giám sát đã yêu cầu Chính phủ có sự chỉ đạo sát sao, quyết liệt vấn đề này.
Về làng nghề, báo cáo đánh giá, với 3.597 làng nghề và 11 triệu lao động, ô nhiễm môi trường làng nghề là một trong những thách thức lớn và rất khó kiểm soát, khó quy hoạch và chưa có biện pháp giải quyết hiệu quả. Qua giám sát cho thấy, các chính sách liên quan đến đẩy mạnh hoạt động BVMT áp dụng cho các làng nghề trên thực tế ít được triển khai. Công tác thanh tra, kiểm tra thực hiện chưa thường xuyên, triệt để.
Phân tích nguyên nhân dẫn đến thực trạng ô nhiễm khu kinh tế, làng nghề hiện nay, Báo cáo giám sát chỉ rõ việc quản lý làng nghề đang thiếu một “nhạc trưởng”. Có địa phương quản lý làng nghề là Sở NN&PTNT, có nơi là do Liên minh Hợp tác xã, có nơi thuộc Sở Công Thương hoặc Sở TN&MT. Các khu kinh tế, làng nghề mở rộng quy mô phát triển một cách tự nhiên theo kiểu “trăm hoa đua nở”, thiếu quy hoạch, thiếu quản lý cũng là một trong những nguyên nhân làm ô nhiễm môi trường ngày một trầm trọng. Ngoài ra, với nếp sống tiểu nông chỉ quan tâm lợi ích trước mắt nên nhiều cơ sở sản xuất đã sử dụng nguyên nhiên liệu rẻ tiền, hóa chất độc hại. Báo cáo cũng cho thấy, mô hình Ban quản lý các khu kinh tế-một cấp quản lý được UBND cấp tỉnh ủy quyền với nhiều chức năng quản lý nhà nước đã tạo nên một số khó khăn nhất định trong việc thực hiện các chức năng BVMT tại các khu kinh tế.
Bên cạnh đó, kinh phí từ trung ương và địa phương dành cho công tác BVMT nói chung và BVMT khu kinh tế, làng nghề nói riêng là rất hạn chế…
Thống nhất các giải pháp
Đề cập các giải pháp trong Báo cáo giám sát và ý kiến đóng góp của các đại biểu cho rằng: Cần tập trung giải quyết bằng những giải pháp cụ thể mà trước tiên là định hướng lại phát triển, đi vào phát triển sâu, bền vững; quy hoạch, sắp xếp lại các khu kinh tế, làng nghề, tùy tình hình mà tập trung hay phân tán cho hợp lý; bố trí lại nguồn ngân sách đầu tư cho môi trường, trên nguyên tắc tập trung cho xã hội hóa; tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra, có chế tài xử lý nghiêm minh sai phạm.
Song song với việc nâng cao năng lực xử lý ô nhiễm môi trường là phải giảm thiểu công nghệ sản xuất lạc hậu, cũ kỹ, áp dụng sản xuất sạch. Cần kiên quyết trong đổi mới công nghệ, không chạy theo tăng trưởng nhanh mà thực sự quan tâm đến tăng trưởng bền vững. Tăng cường vai trò giám sát và quản lý của chính quyền địa phương, giám sát của Quốc hội, Hội đồng nhân dân, thanh tra, kiểm tra. Hạn chế phát triển mới, hạn chế mở rộng các cơ sở sản xuất, tái chế chất thải dệt nhuộm và thuộc da thủ công trong các khu kinh tế, làng nghề. Nghiêm cấm sử dụng những phương pháp sản xuất thủ công và thiết bị gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng, sử dụng quặng có tính phóng xạ, tái chế chất thải nguy hại.
Xây dựng một chương trình mục tiêu quốc gia về BVMT, có chính sách ưu đãi đặc thù về công nghệ, con người đối với làng nghề, thực hiện theo lộ trình. Ưu tiên các chính sách ưu đãi cho làng nghề. Trong vấn đề quy hoạch, cần chỉ rõ làng nghề nào cần đình chỉ hoạt động, làng nào cần di dời, làng nào nên quy hoạch tại chỗ để giữ gìn bản sắc văn hóa, đồng thời bảo đảm về môi trường; đề cao vai trò các hiệp hội làng nghề, phát huy vai trò của nhân dân.
Khẩn trương có các giải pháp xử lý đối với các khu kinh tế, làng nghề đang bị ô nhiễm nghiêm trọng theo Quyết định số 64/2003/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ về việc xử lý triệt để các cơ sở gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng. Mặt khác, cần đưa vào danh sách “đen” và có các biện pháp xử lý kịp thời đối với những cơ sở gây ô nhiễm nghiêm trọng mới phát sinh.
Huy động và phát huy vai trò của các tổ chức chính trị, xã hội tham gia BVMT nói chung, BVMT khu kinh tế, làng nghề nói riêng, nhất là ở địa phương có nhiều khu kinh tế, làng nghề truyền thống. Cần đa dạng hóa các nội dung hoạt động BVMT như phát động các phong trào thi đua, lồng ghép nhiệm vụ BVMT; tham gia thực hiện hương ước, quy ước của cộng đồng dân cư gắn với nội dung BVMT; thông qua hoạt động giám sát tại chỗ để phát hiện những vi phạm về môi trường trong các cơ sở sản xuất, các hộ gia đình kiến nghị cơ quan chức năng xử lý…
Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục nâng cao nhận thức cho chủ cơ sở sản xuất, người lao động và cả cộng đồng dân cư tại khu kinh tế, làng nghề về BVMT.
Trong các giải pháp được nêu, cần ưu tiên thực hiện các giải pháp có tính trước như xây dựng mô hình Ban quản lý, quy hoạch, quản lý nhà nước… Về lâu dài, cần định hướng về chính sách ưu đãi, cơ chế hoạt động xã hội hóa, đổi mới công nghệ…sao cho các giải pháp đặt ra phải vừa giải quyết được những vấn đề bức xúc trước mắt vừa bảo đảm tính bền vững lâu dài.
Kết luận tại buổi làm việc, Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Sinh Hùng cho rằng, các vấn đề Báo cáo giám sát nêu đã khái quát được thực trạng bức xúc trong khu kinh tế, làng nghề. Tuy nhiên, Báo cáo cần bám sát vấn đề giám sát để có những đánh giá chính xác; làm rõ những tình huống trong thực hiện chính sách, pháp luật như: Chủ trương, chính sách đúng mà không làm; có nơi vận dụng tốt nhưng cũng có nơi chưa làm được hoặc có nơi làm sai; kiến nghị trong Báo cáo cần làm rõ ràng, cụ thể, thấy được cái đúng, cái sai, ai sai và sửa sai như thế nào./.








