Liên hiệp các hội khoa học và kỹ thuật Việt Nam
Thứ hai, 30/10/2006 22:27 (GMT+7)

Thử nhận dạng lại chân dung nhân vật Phạm Quỳnh

Đáng thương tâm là chỉ mới chín tháng sau thì bà mẹ đã chết. Cha ông là một nhà nho dạy học, cũng mất khi ông lên chín tuổi, từ đó phải sống cuộc đời cơ khổ linh đinh, được bà nội nuôi cho ăn học, như ông đã có dịp ngậm ngùi nhắc lại trong tập Pháp du hành nhật ký. Năm 1908, Phạm Quỳnh thi đỗ bằng Thành chung rồi vào làm việc tại Trường Viễn Đông bác cổ Hà Nội, có cơ hội đọc được nhiều sách và học thêm chữ Hán. Từ năm 1913, ông cộng tác viết một số bài dịch thuật văn học và tư tưởng cho tờ Đông Dương tạp chícủa Nguyễn Văn Vĩnh. Năm 1917, với sự bảo trợ của Louis Marty, Trưởng phòng chính trị tại phủ Toàn

Hai trang nhật ký năm 1922 tại Pháp của Phạm Quỳnh quyền Pháp, ông đứng ra thành lập tạp chí Nam Phong, làm chủ nhiệm kiêm chủ bút. Năm 1922, ông được cử sang Pháp với tư cách đại diện hội Khai Trí Tiến Đức mà ông là thành viên sáng lập chính, dự hội chợ triển lãm Marseille, lên Parisở lại ba tháng, diễn thuyết nhiều lần trước ban chính trị và ban luân lý của Viện hàn lâm Pháp. Ông tận lực trong việc phiên dịch và truyền bá tư tưởng dân chủ của phương Tây, cổ xúy cho việc gây dựng một nền học quốc gia mới (gọi là quốc học) có tính chất chiết trung Đông Tây thay thế cho Hán học đang suy tàn, gây lấy trong quốc dân một chủ nghĩa quốc gia ôn hòa dựa trên cơ sở văn hóa. Về chính trị, ông chủ trương thuyết quân chủ lập hiến, theo đó phải quy định rõ ràng quyền của dân, của vua quan và của nhà nước bảo hộ bằng hiến pháp. Tháng 11 năm 1932, Phạm Quỳnh được mời vào Huế nhận chức Đổng lý Ngự tiền văn phòng cho vua Bảo Đại theo ý đồ cải cách chính trị của Pháp, sau đó giữ chức Thượng thư Bộ Học (giáo dục) rồi Bộ Lại (1942), toan thi hành một số cải cách lớn về giáo dục và chính trị nhưng không đạt kết quả.

Trong lịch sử văn học Việt Namthời kỳ cận-hiện đại, Phạm Quỳnh có lẽ là một trong những nhân vật nổi bật nhưng lại có vẻ gây nên nhiều cuộc tranh luận với những ý kiến đánh giá khác nhau nhất. Nói như vậy, dù tán thành hay phản đối, hoặc giữ thái độ chiết trung, mặc nhiên mọi người đã thừa nhận vai trò không thể bỏ qua hoặc xem thường của nhân vật nầy trong một bối cảnh lịch sử-văn hóa cụ thể nhất định. Tuy nhiên, nếu chỉ tính trong khoảng hầu hết thời gian của 30 năm trở lại đây, tên tuổi Phạm Quỳnh hầu như hoàn toàn đã bị khuất lấp vào dĩ vãng vì những lý do ngoắt ngoéo tế nhị của lịch sử hiện đại. Ở miền Nam trước năm 1975, trong vài sách văn học sử tiêu biểu như của Phạm Thế Ngũ, Thanh Lãng..., Phạm Quỳnh và Nam Phong tạp chí được giới thiệu khá chi tiết, thường dài trên cả trăm trang, với đầy đủ những khía cạnh phức tạp của vấn đề. Rồi vào khoảng năm 1963, đã nổ ra một cuộc tranh luận kịch liệt kéo dài gọi là “Vụ án truyện Kiều”, có sự tham dự của rất nhiều văn nhân, học giả và nhà nghiên cứu văn học tiêu biểu, mà giáo sư Nguyễn Văn Trung đã có công tập hợp lại thành một hồ sơ để giới thiệu cho các sinh viên đại học văn khoa Sài Gòn thời đó.
Hai trang nhật ký năm 1922 tại Pháp của Phạm Quỳnh

Phạm Quỳnh qua đời năm 1945, nhưng ngay từ năm 1941, khi ông còn sống, tên ông như là người đại diện của “Nhóm Nam Phong” đã được đưa vào một chương trong sách Việt Nam văn học sử yếu của cố giáo sư Dương Quảng Hàm, trong phần chương trình dành cho Năm thứ ba ban Trung học Việt Nam, với những đánh giá cơ bản là rất tốt vì giáo sư Dương Quảng Hàm hầu như không để ý gì đến khía cạnh các mối quan hệ chính trị của nhân vật nầy trong thời cuộc lúc đó: “Cả cái văn nghiệp của ông Phạm Quỳnh đều xuất hiện trên tạp chí Nam Phong, tạp chí ấy trong một thời kỳ, đã thành được một cơ quan chung cho các học giả cùng theo đuổi một chủ đích với ông...”.Và khi đánh giá chung Phạm Quỳnh bên cạnh Nguyễn Văn Vĩnh (nhóm Đông Dương tạp chí), giáo sư Dương Quảng Hàm đưa ra kết luận để kết thúc chương sách nêu trên: “Ông Vĩnh có công diễn dịch những tiểu thuyết và kịch bản của Âu Tây và phát biểu những cái hay trong tiếng Nam ra; ông Quỳnh thì có công dịch thuật các học thuyết tư tưởng của Thái Tây và luyện cho tiếng Nam có thể diễn đạt được các ý tưởng mới. Đối với nền văn hóa cũ của nước ta, thì ông Vĩnh hay khảo cứu những phong tục tín ngưỡng của dân chúng, mà ông Quỳnh thường nghiên cứu đến chế độ, văn chương của tiền nhân. Văn ông Vĩnh có tính cách giản dị của một nhà văn bình dân, văn ông Quỳnh có tính cách trang nghiêm của một học giả. Tuy văn nghiệp của mỗi người có tính cách riêng, nhưng hai ông đều có công với việc thành lập quốc văn vậy”.

Ngay trong quyển văn học sử có thể coi là quy mô đầu tiên của Dương Quảng Hàm nói trên, hơn một nửa số tài liệu đã được tham khảo sử dụng từ tạp chí Nam Phong,còn về bố cục và nội dung thì phảng phất gần đúng với bản chương trình “ Ngôn ngữ và văn chương Hán Việt” do Phạm Quỳnh vạch ra năm 1924 để dùng cho việc giảng dạy của ông ở trường Cao đẳng Đông Dương, mà có người coi là mầm mống của những môn học thuộc văn khoa Việt Nam sau này.

Nếu chỉ tính riêng cái “ công với việc thành lập quốc văn” thôi thì cũng đã là một công lao đóng góp không nhỏ. Năm 1942, khi xuất bản sách Nhà văn hiện đại, Vũ Ngọc Phan cũng đã dành cho Phạm Quỳnh nhà văn đến hơn ba mươi trang sách với hết lời ca ngợi liên quan đến những công trình khảo cứu, dịch thuật, du ký và bình luận: “ Ông là người viết nhiều nhất trong tạp chí Nam Phong. Một điều mà người đọc nhận thấy trước nhất trong những bài biên tập và trước thuật của ông là ông không cẩu thả... Phạm Quỳnh là một nhà văn có thể bàn luận một cách vững vàng và sáng suốt bất cứ về một vấn đề gì, từ thơ văn cho đến triết lý, đạo giáo, cho đến chính trị, xã hội, không một vấn đề nào là ông không tham khảo tường tận trước khi đem bàn trên mặt giấy. Trong lịch sử văn học hiện đại, người ta sẽ không thể nào quên được tạp chí Nam Phong, vì nếu ai đọc toàn bộ tạp chí này, cũng phải nhận là rất đầy đủ, có thể giúp cho người học giả một phần to tát trong việc soạn một bộ bách khoa toàn thư bằng quốc văn”.

Mộ Phạm Quỳnh tại chùa Vạn Phước, Huế.
Mộ Phạm Quỳnh tại chùa Vạn Phước, Huế.
Cuộc đời của Phạm Quỳnh gắn liền với tạp chí Nam Phong (từ năm 1917 đến năm 1932). Tất cả mọi chủ trương, quan điểm, việc làm của ông cả về văn hóa lẫn chính trị cũng đều được thực hiện thông qua tạp chí nầy với sự tham gia của cả đồng đội bao gồm những người đồng thanh khí đã đi theo đường lối của ông trên suốt một đoạn đường dài. Đây là tờ tạp chí do người Pháp lập ra giao cho Phạm Quỳnh điều khiển, dưới tên Nam Phong có ghi rõ là “Thông tin Pháp” ( L’information française), giống như ngày nay dưới mỗi tờ báo người ta ghi “Cơ quan ngôn luận của...”, nên mục đích của nó dĩ nhiên trước hết là biện minh, phục vụ cho chính sách cai trị của người Pháp ở Việt Nam. Điều nầy đã quá rõ ràng, nhưng nếu nói Phạm Quỳnh chỉ là một tên “Việt gian tay sai phản động buôn dân bán nước mãi quốc cầu vinh” thì là nói quá dễ, trong khi việc đời đâu có đơn giản như vậy, vì như thế là không thấy hết mọi khía cạnh quan hệ phức tạp của con người với thời cuộc trong một giai đoạn lịch sử đặc thù.

Có thể nói, hầu như ai cũng trách họ Phạm trong đất nước nô lệ chẳng những không đấu tranh chống lại chủ nghĩa thực dân một cách tích cực bằng bạo động mà còn a dua theo Pháp. Trên thực tế hành động, về chính trị ông chỉ là một người theo chủ nghĩa cải lương bảo thủ, chủ trương chính thể quân chủ lập hiến, tạo lập một nước Việt Nam mới tự trị bằng cách xây dựng một nền giáo dục và quốc học Việt Nam dung hợp những tinh hoa tư tưởng đông tây nhằm đào tạo một tầng lớp trí thức mới học hỏi theo những điểm tiến bộ của phương tây trên cơ sở chấp nhận chế độ thuộc địa và có sự giúp đỡ của người Pháp. Ngay cả điều này, xét về kết quả thực hiện vốn rất hạn chế, cả khi nắm được đại quyền trong tay với chức Đổng lý Ngự tiền văn phòng cho triều đình Huế (1932), rồi Thượng thư Bộ Học, Thượng thư Bộ Lại, xem ra Phạm Quỳnh cũng chỉ là một nhà chính trị đầy mộng tưởng. Nói cách khác, ông chỉ là một nhà văn-nhà báo-nhà giáo dục và học giả giỏi chứ không có cái năng khiếu, sở trường lẫn sở thích của một người hoạt động chính trị dù theo chủ nghĩa cải lương hay cách mạng. Về phương diện nầy, có lẽ ông rất giống với một người cùng thời cũng từng cộng tác với Nam Phong là Trần Trọng Kim, chỉ làm việc tốt với vai trò của nhà giáo dục-học giả chứ không thể làm chính trị được. Nếu vì những lý do run rủi của cuộc sống, thời cuộc hoặc do nhận thức không chính xác về bản chất, khả năng của mình mà hạng học giả phải dấn thân vào con đường chính trị với chút hi vọng thực hiện hoài bão thì trước sau gì cũng thất bại thê thảm, như một Trần Trọng Kim sau “một cơn gió bụi”, cuối cùng cũng phải ngậm thở ngùi than mà thôi, bằng mấy câu thơ Đường mượn của Đái Thúc Luân “ Liêu lạc bi tiền sự, chi li tiếu thử thân” (Quạnh hiu thương chuyện xưa kia, vẩn vơ lẩn thẩn cười chê thân mình). Đây là một chân lý đã được lịch sử chứng minh chắc nịch, và nếu cứ tiếp tục suy diễn theo lối nầy, giả định Phạm Quỳnh có dấn thân vào con đường cách mạng bạo động để chống Pháp thì kết quả cùng lắm nếu không như Nguyễn Thái Học phải lên đoạn đầu đài rất sớm thì cũng giống cụ Phan Bội Châu và một số sĩ phu yêu nước khác. Không những thế, có thể còn vì lý do giả định nầy mà ngoài tác dụng làm gương và động viên dân chúng về tinh thần yêu nước chống Pháp, Phạm Quỳnh chẳng những không thể trở thành một lãnh tụ chống Pháp thành công mà cũng chẳng đóng góp được việc gì quan trọng tích cực trên phương diện xây dựng văn hóa-giáo dục như ông đã làm được. Do vậy dứt khoát chúng ta không nên lấy lẽ Phạm Quỳnh chủ trương Pháp-Việt đề huề chẳng hạn để làm lý do kết án ông một cách quá nặng nề mà chỉ coi đó cũng là một chủ trương chính trị bên cạnh nhiều chủ trương loại khác, trong một đất nước mất chủ quyền mà sự phân liệt về tư tưởng, đường lối của hàng ngũ trí thức để tìm ra một hệ giải pháp cứu nước là điều hầu như không thể nào tránh khỏi. Còn việc ông ca ngợi thực dân Pháp có lẽ cũng đáng trách, nhưng sẽ có thái độ bao dung nhiều hơn nếu người ta chịu thừa nhận một thực tế rằng, trừ trường hợp ở trong một chế độ dân chủ đã thật sự phát triển, coi báo chí đối lập là tự nhiên, còn thời nào cũng vậy, nội dung báo chí đặt dưới sự chủ quản của ai thì cũng phải nói theo người đó.

Phạm Quỳnh không làm cách mạng nhưng hầu như ông không hề có một lời lẽ nào nói xấu các chí sĩ hoạt động yêu nước. Trái lại, ông coi những người làm quốc sự lúc đó là thành phần khả kính, đứng trên ông một bực, chấp nhận mỗi người một việc theo chí hướng riêng, vì ông không có cái can đảm hoặc hoàn cảnh để làm được như họ. Khi viết bài trả lời lại bài “ Cảnh cáo các nhà học phiệt” (đăng trên báo Phụ Nữ Tân Vănsố 62 ra ngày 24.7.1930) của Phan Khôi công kích thái độ làm thinh tự cao coi thường dư luận của ông khi bị cụ nghè Ngô Đức Kế mạt sát trong vụ ông suy tôn Truyện Kiều vào dịp lễ kỷ niệm Nguyễn Du hồi sáu năm trước (năm 1924), vì bị gán cho những mục đích không tốt đẹp, Phạm Quỳnh đã dùng những lời lẽ rất nhã nhặn và tôn kính khi nhắc đến bậc quốc sĩ: “ Họ Ngô đối với tôi vốn không hiềm khích gì. Ông là người quốc sự phạm cũ, vì việc nước mà long đong chìm nổi trong bao năm, dẫu người không đồng tư tưởng, đồng chánh kiến với ông, cũng phải kính trọng cái thân thế của ông. Tôi cũng vậy, thủy chung vẫn coi ông như bậc đàn anh”.

Cũng nhân bài viết nêu trên, ông xác định lại thái độ chính trị của mình, là chỉ làm văn hóa chứ không làm chính trị: “ Tôi vốn là nhà làm văn, nhà học vấn. Cái chủ nghĩa tôi phụng sự bấy lâu nay – kể có trên dưới mười lăm năm trời thật là dốc một lòng, chuyên một dạ – chính là chủ nghĩa quốc gia, nhưng chỉ mới phụng sự về phương diện văn hóa, chưa hề chuyển di sang phương diện chính trị. Tôi thiết nghĩ rằng muốn cho nước nhà được độc lập, thì phải gây lấy cái hồn độc lập cho quốc dân. Muốn gây lấy cái hồn độc lập cho quốc dân thì phải có khí cụ để tuyên truyền giáo dục. Cái khí cụ để tuyên truyền giáo dục là ngôn ngữ văn tự trong nước. Bởi thế cho nên 15 năm nay, tôi không làm một việc gì khác cả: chỉ cúc cung tận tụy về một việc, là cổ động cho quốc văn, tài bồi cho quốc văn, gây dựng cho quốc văn thành một nền văn chương đích đáng, có thể dùng làm cái lợi khí để truyền bá văn minh trong nước. Các bạn đồng chí trong Nam ngoài Bắc cũng đã công nhận cho cái công phu ấy không phải là vô ích. Vì tôi chỉ chuyên chủ về một việc tài bồi quốc văn như vậy, cho nên thật không để chí vào việc chính trị. Ai bình phẩm tôi về chính trị là bình phẩm sai cả. Tôi cho là bất túc kính trọng, nên không hề đối đáp, không hề cải chính bao giờ”.

Trên thực tế, nhờ kiên trì nhẫn nại đấu tranh theo đuổi mục đích, và giữ vững lập trường văn hóa, Phạm Quỳnh đã cơ bản đạt được những hoài bão chính của mình. Vào chặng cuối đời, sau khi vào triều đình Huế giữ các chức thượng thư mà cũng chẳng thi hành được thuyết lập hiến, rồi đến ngày Nhật đảo chánh Pháp (9.3.1945), Phạm Quỳnh và cả nội các cũ bị thay thế, coi như con người chính trị đã thất bại. Người ta để ý có lúc Phạm Quỳnh dường như chán nản, lui về sống âm thầm cuộc đời của người ẩn dật trong một căn nhà hẻo lánh trên bờ sông An Cựu ở Huế, không tham gia chính phủ mới của Trần Trọng Kim, không chạy theo thực dân Pháp để được Pháp bảo vệ, nhưng cũng không theo một phe phái cách mạng nào. Sự thất bại chính trị đã làm hại không ít uy tín của con người văn hóa Phạm Quỳnh, gây nên rất nhiều cách đánh giá khác nhau của hậu thế về nhân cách cùng sự nghiệp của ông.

Về sự kiện kết liễu cuộc đời của nhân vật thời đại – học giả Phạm Quỳnh, hiện nay chúng ta chưa có tài liệu công khai đầy đủ để biết rõ, nên khó đánh giá lại tội ông có đáng bị xử chết vào thời điểm lịch sử nước sôi lửa bỏng đó hay không, nhất là khi so sánh với Bảo Đại vốn là quân vương của ông, cũng theo Pháp, cùng với nhiều người khác, nhưng số phận ít bi thảm hơn. Có loại ý kiến tương đối trầm tĩnh, cho rằng: “ Trong cuộc đời Phạm Quỳnh, cái bước rẽ 1932 không phải là bước rẽ đưa đến nẩy nở và vinh quang mà là đưa đến chấm dứt sự nghiệp. Ngày nay chúng ta có nghiên cứu Phạm Quỳnh là nghiên cứu nhà báo và nhà văn của tạp chí Nam Phong, con người và tư tưởng trước 1932, con người tốt đẹp đã đóng một vai trò tương đối tiến bộ trong một giai đoạn lịch sử chánh trị và nhất là đã dày công xây đắp cho nền học và nền văn mới”(Phạm Thế Ngũ: Việt Nam văn học sử giản ước tân biên, tập III, Quốc học tùng thư, 1965, tr. 170).

Bỏ qua tất cả mọi vấn đề thuộc về quan điểm lập trường cùng thái độ, phương cách dấn thân, ai cũng thấy về phương diện cá nhân, Phạm Quỳnh là một người suốt đời làm việc siêng năng tận tụy, không ăn chơi trác táng, thậm chí còn sống khắc khổ nữa là khác. “Nhà văn ấy ở tư tưởng cũng như ở đời tư có lẽ kém lãng mạn nhất thế hệ... Suốt đời ông chỉ là một thứ thầy dòng giảng đạo, nghiêm nghị đạo mạo... Phê bình Phạm Quỳnh, người ta vẫn thường chịu ảnh hưởng những thành kiến chính trị, và cái vụ Ngô Đức Kế vẫn còn đè nặng lên một bên cán cân của dư luận đối với ông, ngay ở dư luận những người làm văn học”(Phạm Thế Ngũ, sđd., tr. 159). Ngay trong giai đoạn ra làm quan ở Huế, người ta có thể chê Phạm Quỳnh là không sáng suốt, bất thức thời vụ nầy khác, hoặc cũng ít nhiều ham mê chức vụ (ai mà không ít nhiều như vậy?), và cuối cùng thất bại, nhưng dù sao ông cũng là một ông quan lớn có học vấn uyên bác gần như có thể nói là bậc nhất thời đó, và chưa nghe ai có một lời phê bình ông là kẻ tham quan ô lại hoặc lạm dụng chức quyền để được nhà cao cửa rộng phục vụ cho những mục đích thuần túy cá nhân. Xét về phương diện đó, nếu có ai muốn xếp ông vào hạng chính nhân quân tử thì chúng ta ngày nay cũng không nên cản vì không phải là điều quá đáng.

Nhờ suốt đời tận tụy làm việc, Phạm Quỳnh đã để lại một sự nghiệp văn hóa quả thật đồ sộ. Tạp chí Nam Phong ra trong 17 năm được 210 số, riêng ngòi bút Phạm Quỳnh viết ra đã có tới chục ngàn trang. Trong số năm viết lách kể trên, ông trở thành một nhà ngôn luận có khả năng bàn một cách rành mạch và có sức thuyết phục về đủ thứ chuyện trên đời. Một phần những loạt bài biên dịch, khảo cứu, du ký có giá trị của ông thuộc đủ thể loại về sau đã được sắp xếp lại để in thành sách trong bộ NamPhong tùng thư. Riêng bộ Thượng Chi văn tậpgồm năm quyển chỉ là một phần nhỏ những thiên nghị luận hoặc biên khảo tương đối quan trọng được dọn lại trong năm 1942 khi đã vào làm quan ở Huế, chọn lọc từ số hàng trăm bài báo viết ra trong giai đoạn đầu Nam Phong (1917-1922), gồm những bài ông khiêm tốn gọi là “coi được”, tựu trung phát biểu được hầu hết những ý kiến chủ yếu của ông liên quan đến các vấn đề văn hóa, ngôn ngữ, văn học, giáo dục, chính trị, kinh tế, triết học... mà ngày nay đọc lại vẫn còn có thể rút ra được rất nhiều điều bổ ích.

Nhưng bản chất khắc nghiệt của dòng chảy lịch sử thường ít tạo cơ hội để xét riêng cho những trường hợp đặc biệt, nhất là trong lúc phong trào cách mạng cuộn dâng như vũ bão tạo nên những khoảng tranh tối tranh sáng khiến khó tránh khỏi tình trạng của một số người bồng bột quá khích. Có lẽ vì vậy mà cuộc đời Phạm Quỳnh đã bị kết thúc một cách không êm thắm, hoàn toàn không có chút gì tương ứng với bộ mặt thư sinh hiền lành của ông trong bộ quốc phục cùng với cặp kính trắng của nhà học giả không biết sắt máu là gì, suốt đời chỉ chúi mũi làm bạn với sách vở và vì thế không thể có cái lanh lợi ứng biến khôn ngoan của một người lọc lõi chính trị. Tên tuổi của Phạm Quỳnh cũng vì lý do đó bẵng đi một thời gian rất dài không thấy được nhắc tới trong chương trình văn học của nhà trường xã hội chủ nghĩa. Quyển Từ điển Văn họcbộ cũ của Nhà xuất bản Khoa Học Xã Hội xuất bản năm 1983 của thế kỷ vừa qua cũng không thấy có mục tên ông. Mãi đến năm 2000, sau khi đã vượt qua một cách khá khó khăn thời kỳ mông muội cực đoan của chủ nghĩa giáo điều, để bắt đầu nhận thức lại một cách trầm tĩnh hơn những vấn đề thuộc quá khứ lịch sử, tên Phạm Quỳnh mới được chính thức nêu thành mục từ trong quyển Từ điển Nhân vật lịch sử Việt Namcủa Nhà xuất bản Giáo Dục (không kể một cuốn khác cùng tên được xuất bản trước đó gần 10 năm, của Nguyễn Bá Thế-Nguyễn Q. Thắng, có một mục về ông nhưng không phải của Nhà xuất bản Giáo Dục). Gần đây nhất, trong bộ Từ điển Văn họcbộ mới (Nhà xuất bản Thế Giới, tháng 10.2004), tên ông đã được bổ sung trong mục Phạm Quỳnhdo Nguyễn Huệ Chi viết, dài đến 3 trang giấy khổ lớn, với một sự trình bày khá khách quan và trân trọng, thừa nhận hầu hết tất cả mọi công lao đóng góp của ông đối với nền văn hóa nước nhà. Trong sách thí điểm phân ban môn văn học thực hiện từ năm nay (2005), Phạm Quỳnh lần đầu tiên mới được đưa vào sách giáo khoa nhà trường phổ thông, nhưng còn rất ít, ở những chỗ nói về sự phát triển của nền văn học-báo chí quốc ngữ và cuộc tranh luận Truyện Kiềugiữa ông Ngô với ông Phạm, kể ra cũng là một điểm tiến bộ rất đáng khích lệ trong quá trình điều chỉnh nhận thức.

Trước đó, quý II năm 2003, Nhà xuất bản Văn Hóa Thông Tin và Trung Tâm Văn Hóa Ngôn Ngữ Đông Tây cũng đã xuất bản một tuyển tập gần 30 bài viết của ông, lấy tên Phạm Quỳnh, luận giải văn học và triết học(do Trịnh Bá Đĩnh tuyển chọn, giới thiệu). Mấy tập du ký của ông như Mười ngày ở Huế, Pháp du hành nhật kýcũng được Nhà xuất bản Hội Nhà Văn lần lượt cho in lại (tháng 4.2004) một cách trân trọng.

Như vậy, trong thực tiễn đổi mới của hoạt động văn học, vấn đề Phạm Quỳnh đã được xã hội nhận thức lại một cách sáng sủa thỏa đáng và công bằng hơn nhiều so với trước đây, không cần phải thúc đẩy vận động gì thêm nữa.

* Đã đăng tạp chí Nghiên cứu và Phát triển , số 2 (55). Huế: Sở  Khoa học và Công nghệ  Thừa Thiên - Huế, Quý 2, 2006. E-mail:

Kcmtthue@dng.vnn.vn

Nguồn: Vietsciences.free.fr 24/10/2006

Xem Thêm

Tạo thuận lợi hơn cho công tác tổ chức hội nghị, hội thảo quốc tế
Dự thảo Quyết định điều chỉnh, sửa đổi Quyết định 06/2020/QĐ-TTg ngày 21/02/2020 của Thủ tướng Chính phủ về tổ chức, quản lý hội nghị, hội thảo quốc tế tại Việt Nam nhằm giải quyết những vướng mắc trong quy định hiện hành, tăng cường phân cấp và đơn giản hóa thủ tục hành chính.
Để trí thức khoa học tham gia sâu hơn vào công tác Mặt trận
Hội thảo khoa học tại Hà Nội ngày 6/11/2025 đánh giá thực trạng sự tham gia, phối hợp của Liên hiệp Hội Việt Nam trong các hoạt động chung của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam giai đoạn 2015-2025. Các chuyên gia thẳng thắn chỉ ra những thành tựu, hạn chế và đề xuất giải pháp cho giai đoạn tới.
Còn nhiều rào cản trong thực thi bộ tiêu chuẩn ESG
Hầu hết các doanh nghiệp vừa và nhỏ (DNVVN) nói chung và DNVVN nói riêng trên địa bàn Thành phố Hà Nội gặp nhiều rào cản và thách thức trong thực thi tiêu chuẩn môi trường, xã hội và quản trị (ESG).
Đắk Lắk: Góp ý kiến văn kiện Đại hội lần thứ XIII của Đảng
Ngày 13/6, Liên hiệp hội tỉnh đã tổ chức góp ý kiến đối với dự thảo kế hoạch tổ chức hội nghị lấy ý kiến văn kiện Đại hội lần thứ XIII của Đảng và dự thảo Báo cáo chính trị trình Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh lần thứ XVII, nhiệm kỳ 2025 – 2030.
Hà Giang: Góp ý dự thảo sửa đổi Luật Chất lượng sản phẩm
Ngày 13/6, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật (Liên hiệp hội) tỉnh đã tổ chức hội thảo góp ý dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Chất lượng sản phẩm, hàng hoá (CLSPHH). Tham dự hội thảo có lãnh đạo đại diện các Sở, ban ngành của tỉnh, các hội thành viên Liên hiệp hộivà các chuyên gia TVPB.
Đắk Lắk: Hội nghị phản biện Dự thảo Nghị quyết về bảo đảm thực hiện dân chủ cơ sở
Sáng ngày 27/5/2025, tại trụ sở Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh Đắk Lắk (Liên hiệp hội) đã diễn ra Hội nghị phản biện và góp ý đối với Dự thảo Nghị quyết của Hội đồng nhân dân (HĐND) tỉnh Đắk Lắk về việc quyết định các biện pháp bảo đảm thực hiện dân chủ ở cơ sở trên địa bàn tỉnh.
Phú Thọ: Lấy ý kiến về Dự thảo Nghị quyết sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 2013
Sáng ngày 20/5/2025, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh Phú Thọ (Liên hiệp hội) tổ chức hội thảo lấy ý kiến của đội ngũ trí thức, chuyên gia, nhà khoa học về dự thảo Nghị quyết sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013.

Tin mới

Đảng bộ Liên hiệp Hội Việt Nam: Kiểm điểm, đánh giá chất lượng Ban Chấp hành Đảng bộ năm 2025
Ngày 12/12, Đảng bộ Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (Liên hiệp Hội Việt Nam) tổ chức Hội nghị kiểm điểm đối với tập thể, cá nhân Ban Chấp hành Đảng bộ năm 2025. Đồng chí Phạm Ngọc Linh, Phó Bí thư Thường trực Đảng ủy, Phó Chủ tịch Liên hiệp hội Việt Nam chủ trì Hội nghị. Tham dự có đồng chí Phan Xuân Dũng, Chủ tịch Liên hiệp Hội Việt Nam cùng các đồng chí trong BCH Đảng bộ.
Chủ tịch Phan Xuân Dũng dẫn đoàn Việt Nam tham dự Triển lãm quốc tế về Sáng tạo khoa học công nghệ (SIIF 2025) tại Seoul
Từ ngày 3-7/12, Triển lãm quốc tế về khoa học công nghệ (SIIF 2025) được tổ chức tại thủ đô Seoul, Hàn Quốc. Theo lời mời của Hiệp hội Xúc tiến sáng chế Hàn Quốc (KIPA), Quỹ Sáng tạo kỹ thuật Việt Nam (VIFOTEC) đã thành lập đoàn tham gia Triển lãm quốc tế về khoa học công nghệ (SIIF 2025) do TSKH. Phan Xuân Dũng, Chủ tịch Liên hiệp Hội Việt Nam, Chủ tịch Quỹ VIFOTEC - làm trưởng đoàn.
Tìm giải pháp truyền thông đột phá cho phát triển khoa học công nghệ
Nghị quyết 57-NQ/TW xác định vị thế khoa học, công nghệ và chuyển đổi số là chìa khóa để Việt Nam vươn mình, trở thành quốc gia phát triển. Giới chuyên gia đưa ra lộ trình cụ thể giúp truyền thông chính sách thành hành động, từ xây dựng tòa soạn thông minh đến phát triển hệ sinh thái nội dung số.
Liên hiệp Hội Việt Nam tiếp nhận kinh phí ủng hộ đồng bào miền Trung, Tây Nguyên bị thiệt hại do mưa lũ
Chiều ngày 09/12, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (Liên hiệp Hội Việt Nam) đã tổ chức buổi tiếp nhận kinh phí ủng hộ đồng bào miền Trung, Tây Nguyên bị thiệt hại do mưa lũ. Đây là hoạt động tiếp nối tinh thần của Lễ phát động ủng hộ đồng bào miền Trung, Tây Nguyên do Liên hiệp Hội Việt Nam tổ chức vào ngày 24/11 vừa qua.
Trí thức Việt Nam đồng hành cùng tương lai Xanh
Đội ngũ trí thức Việt Nam luôn đóng vai trò then chốt với những đóng góp trong nghiên cứu, chuyển giao công nghệ, đổi mới sáng tạo, tư vấn chính sách và truyền cảm hứng cộng đồng. Những chuyển động mạnh mẽ về khoa học môi trường, năng lượng sạch, kinh tế tuần hoàn và công nghệ xanh trong thời gian qua có dấu ấn đậm nét của đội ngũ trí thức khoa học và công nghệ nước ta…
Phát huy vai trò đội ngũ trí thức khoa học và công nghệ trong đột phá phát triển khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo
Sáng ngày 05/12, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (VUSTA) phối hợp với Hội Nữ trí thức Việt Nam (VAFIW) tổ chức Hội thảo “Phát huy vai trò đội ngũ trí thức khoa học và công nghệ trong đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo”.
Các nhà khoa học giao lưu, thuyết giảng tại trường đại học
Từ trí tuệ nhân tạo (AI), vật liệu bán dẫn hữu cơ, công nghệ y học đến biến đổi khí hậu và đa dạng sinh học… những buổi trò chuyện không chỉ mở rộng tri thức chuyên sâu mà còn truyền cảm hứng mạnh mẽ về hành trình chinh phục khoa học cho hàng nghìn sinh viên và giảng viên cả nước.