Liên hiệp các hội khoa học và kỹ thuật Việt Nam
Thứ tư, 11/08/2010 22:40 (GMT+7)

Theo bước chân của những người đi mở cõi

Lịch sử mở cõi của người Việt trải qua cả nghìn năm và chủ yếu gắn với công cuộc mở rộng lãnh thổ về phía Nam và ra hướng biển. Mồ hôi, nước mắt và cả máu của người Việt đã thấm đổ trên từng tấc đất, tấc biển, để hôm nay non nước Việt Nam được nối dài từ địa đầu Móng Cái đến Mũi Cà Mau, từ dãy Trường Sơn ngất cao vời vợi, đến tận Hoàng Sa - Trường Sa giữa biển Đông mênh mông, lộng gió.

Trong buổi đầu dựng nước, ý thức mở cõi của người Việt đã được hiện thực hoá qua công cuộc khai phá, chinh phục các vùng đồng bằng châu thổ màu mỡ nơi lưu vực sông Hồng, sông Mã, sông Cả. Kết quả, từ mảnh đất trung du nhỏ hẹp với trung tâm là vùng Phong Châu (Phú Thọ), đất đai – lãnh thổ của người Việt đã mở rộng cho đến chân đèo Ngang (con đèo phân chia địa giới hai tỉnh Hà Tĩnh và Quảng Bình).

Ở thời Bắc thuộc, do chịu sự thống trị, cưỡng chế của các triều đại phong kiến Trung Quốc, công cuộc mở cõi của người Việt gần như bị gián đoạn. Lãnh thổ của người Việt trở thành đơn vị hành chính của đế quốc Trung Hoa. Tuy nhiên, bước vào thời tự chủ, nhất là từ sau khi Ngô Quyền đánh bại quân xâm lược Nam Hán, dựng nên chính quyền Nhà nước phong kiến đầu tiên trong lịch sử Việt Nam (938), công cuộc mở cõi của người Việt lại được tiến hành với mức độ mạnh mẽ hơn.

Suốt thời tự chủ (X – XV), cộng đồng cư dân người Việt, với vị thế là chủ nhân của một quốc gia phong kiến độc lập, hùng cường, bằng nhiều cách đã từng bước mở rộng lãnh thổ của mình về phía Nam và hướng biển. Ở thời kỳ này, quá trình mở cõi của người Việt gắn chặt với sự phát triển thăng trầm của các quốc gia tồn tại trên lãnh thổ Việt Nam thời bấy giờ là Đại Việt, Cham Pa và Chân Lạp. Trong đó, bằng chính sách đối ngoại khôn khéo, linh hoạt (khi thì dùng quan hệ ngoại giao, khi dùng sức mạnh quân sự, hoặc sử dụng chính sách di dân chiếm lĩnh các vùng đất hoang vu mà chính quyền Cham Pa, hay Chân Lạp không thể kiểm soát), Đại Việt đã từng bước chiếm lĩnh các vùng đất phía Nam. Sự kiện nổi bật, khởi đầu công cuộc mở cõi là thời Tự chủ chính là việc nhà Trần lấy đát hai Châu Ô, Châu Lý của Cham Pa (vùng đất Quảng Bình, Quảng Trị, một phần Thừa Thiên Huế ngày nay) vào những năm đầu thế kỷ XIV. Năm 1306, với việc vua Trần Nhân Tông gả công chúa Huyền Trân cho vua Cham Pa là Chế Mân để rồi được vua Chế Mân cắt Châu Ô, Châu Lý về cho Đại Việt, coi đó như một món quà của lễ cầu hôn. Người đời sau vẫn thường đánh giá, đây là cuộc hôn nhân đầy tính chính trị - cuộc hôn nhân nằm trong chiến lược mở rộng lãnh thổ vào phía Nam của nhà Trần. Thực tế ở thời Lý - Trần, những cuộc hôn nhân mang mục đích như thế không phải là hiếm. Dùng hôn nhân, thông qua hô nhân để thắt chặt mối quan hệ bang giao với các quốc gia láng giềng, hoặc ràng buộc các thủ lĩnh, tù trưởng miền biên ải nhằm giữ đất, bảo đảm sự trung thành tuyệt đối của họ đối với chính quyền Nhà nước là một kế sách giữ nước lớn được các ông vua thời Lý - Trần thường xuyên sử dụng. Lấy được đất Châu Ô, Châu Lý, lãnh thổ nước ta đã mở rộng đến sát chân đèo Hải Vân.

Tiếp nối công cuộc mở cõi của các triều đại trước, sang thời nhà Hậu Lê, vào năm 1469, nhân việc vua Cham Pa là Trà Toàn cho quân đánh cướp các vùng đất của nước ta, vua Lê Thánh Tông đã đích thân thống lĩnh đại quân đánh thẳng vào kinh đô Chà Bàn của Cham Pa (thành Chà Bàn thuộc Quy Nhơn, Bình Định ngày nay). Trong trận đánh này, vua Trà Toàn bị bắt, vương quốc Cham Pa tổn thất nặng nề và từ đó trở nên kiệt quệ, không còn cơ hội hồi phục. Sử cũ chép lại, sau khi giành thắng lợi trên đất Cham Pa, vua Lê Thái Tông đã cho rút quân về nước, đồng thời phong vương cho hai tù trưởng địa phương cai quản những vùng đất vừa chiếm được, đó là vùng Nam Bàn (bao gồm Kon Tum, Gia Lai, Đắc Lắc ngày nay) và vùng Hoa Anh (bao gồm Phú Yên, Khánh Hoà ngày nay). Như vậy, mặc dù chưa chính thức sáp nhập hai xứ Nam Bàn, Hoa Anh vào lãnh thổ nước ta, nhưng trên thực tế dải đất từ Khánh Hoà trở ra Quảng Nam – Đà Nẵng và cả một vùng rộng lớn cao nguyên, vào cuối thế kỷ XV coi như đã trở thành đất phên dậu, gián tiếp thuộc quyền quản lý của chính quyền người Việt.

Thời kỳ đỉnh cao trong công cuộc mở cõi về phương Nam của người Việt nằm trong khoảng thời gian từ giữa thế kỷ XVI cho đến cuối thế kỷ XVII, gắn với lịch sử phát triển của chính quyền chúa Nguyễn ở Đàng Trong. Từ vùng đất Thuận Hoá – Phú Xuân (được xác lập bởi chúa Tiên - Nguyễn Hoàng – năm 1558), chính quyền họ Nguyễn trong bối cảnh Cham Pa, Chân Lạp suy yếu, kiệt quệ và tan rã, đã từng bước chiếm lĩnh các vùng đất phía Nam, tổ chức thành các đơn vị hành chính khẳng định chủ quyền lãnh thổ dân tộc.

Vào năm 1653, với sự kiện chính quyền chúa Nguyễn cắt cử Cai cơ Hùng Lộc Hầu đem quân trấn thủ vùng đất từ Phú yên đến Bình Thuận, lập ra hai dinh Thái Khang, Diên Ninh. Tiếp đó, năm 1693 Chúa Nguyễn lấy nốt đất Bình Thuận, đặt ra dinh Bình Thuận thì coi như toàn bộ đất đai Cham Pa đã trọn vẹn sáp nhập vào lãnh thổ của người Việt. Vương quốc Cham Pa lừng lẫy một thời đến đây không còn tồn tại với tư cách một quốc gia trên bản đồ hành chính khu vực nữa.

Đối với vùng Đồng Nai – Gia Định và khu vực đồng bằng sông Cửu Long, vùng đất vốn trước đây thuộc về vương quốc cổ Phù Nam, rồi sau đó là quốc gia Chân Lạp - thực chất, quá trình mở cõi, xác lập lãnh thổ ở khu vực này có vai trò rất lớn của các di dân người Việt và một bộ phận lưu dân người Hoa (người Hoa thời bấy giờ thường được gọi là người Minh Hương - gốc chủ yếu ở Quảng Đông, Phúc Kiến, Nam Hải chạy loạn sang nước ta dưới thời nhà Thanh thế kỷ XVII).

Như đã biết, Chân Lạp là quốc gia được thành lập trên cơ sở phân lập, tan rã của vương quốc cổ Phù Nam vào khoảng thế kỷ VI. Chân Lạp từng một thời là quốc gia rộng lớn, khá hùng mạnh (với hai tiểu vùng: Lục Chân Lạp và Thuỷ Chân Lạp – vùng Đông, Tây Nambộ Việt Nam ngày nay). Tuy nhiên sau 5 thế kỷ phát triển, sang thế kỷ XI quốc gia này bắt đầu suy yếu, mất dần vị thế. Cho đến cuối thế kỷ XII, đầu thế kỷ XIII, toàn bộ vùng Thuỷ Chân Lạp đã tách ra khỏi sự kiểm soát của chính quyền Nhà nước Chân Lạp và gần như trở thành vùng đất vô chủ. Trong điều kiện như vậy, các luồng di dân tự do (mà chủ yếu là người Việt và một bộ phận nhỏ người Hoa) đã tràn vào khai phá vùng đất này để lập nên xóm - ấp của mình. Thực tế, cho đến trước khi chính quyền Chúa Nguyễn đặt ra các đơn vị hành chính, khẳng định chủ quyền đối với vùng đất Nam bộ, thì ở đây đã có rất đông người Việt quần cư, sinh sống. Di dân người Việt, người Hoa và cư dân các tộc người bản địa như: Mạ, Cờ Ho, Xtiêng, Mnông và cả người Khơ me (theo một số nhà nghiên cứu người Khơ Me mãi đến thế kỷ thứ VIII mới có mặt trên đất Nam bộ), đã cùng chung lưng, đấu cật để mở mang, khai phá vùng đồng bằng màu mỡ, trù phú này. Năm 1698, với việc Chúa Nguyễn giao nhiệm vụ cho Nguyễn Hữu Cảnh vào chấn chỉnh, tổ chức ra các phủ huyện, dinh trấn trên vùng đất Nam bộ, thì coi như vùng đất Nam bộ đã được sáp nhập vào lãnh thổ Việt Nam. Riêng Hà Tiên – vùng đất nằm ven vịnh Thái Lan, sát gần với Campuchia, vốn trước đây gọi là vùng Mang Khảm do Mạc Cửu (một di dân người Hoa) cai quản. Năm 1714, Mạc Cửu đã đem đất Mang Khảm thần phục chính quyền chúa Nguyễn và được phong làm Tổng binh trấn giữ chính vùng đất này.

Đồng thời với việc mở rộng lãnh thổ trên đất liền, người Việt trong quá trình phát triển đất nước, cả trong tâm thức và hành động thực tiễn luôn hướng về biển để tạo dựng biên cương,bờ cõi của mình trên vùng biển Đông rộng lớn. Từ buổi hồng hoang, câu chuyện về cội nguồn Tiên - Rồng của dân tộc gắn với hình ảnh cha Lạc Long Quân và mẹ Âu Cơ chia con lên rừng, xuống biển đã cho thây tư duy về tính toàn vẹn lãnh thổ trên cả hai địa bàn chiến lược: đất liền và hải đảo của cư dân người Việt chúng ta. Và hẳn nhiên, với tư duy đó cho nên, ngay từ buổi đầu dựng nước, các đảo và vùng biển ven bờ đã nhanh chóng được người Việt khai phá, xác lập chủ quyền lãnh thổ. Trong công cuộc hành tiến về phương Nam, trên cơ sở kế thừa di sản mà cộng đồng cư dân bản địa để lại, cha ông người Việt đã tiếp tục hoạch định và thực hiện chiến lược chinh phục, khẳng định chủ quyền lãnh thổ trên biển Đông. Các đảo lớn có vị trí trọng yếu như Côn Đảo, Phú Quốc đã sớm được cư dân người Việt chiếm lĩnh. Vì thế trong cuộc chạy trốn sự truy kích của quân Tây Sơn, Nguyễn Ánh – Gia Long do hiểu biết khá rành rọt những hòn đảo này, nên đã biến đây thành những hậu cứ của mình. Riêng hai quần đảo Hoàng Sa - Trường Sa, theo nhiều nhà nghiên cứu, ít nhất vào thế kỷ XV, người Việt đã vẽ nó trên bản đồ hành chính quốc gia với tên gọi là “Bãi Cát Vàng” (sau này, vào thế kỷ XVII chính bản đồ Hoàng Sa - Trường Sa đã được Đỗ Bá Công Đạo chép lại trong “Toàn tập Thiên Nam tứ chi lộ đồ thư”). Đó là bằng chứng rõ ràng nhất, khẳng định chủ quyền của Việt Nam với hai quần đảo Hoàng Sa - Trường Sa.

Như vậy, về cơ bản cho đến cuối thế kỷ XVII, sự toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam từ Móng Cái đến Mũi Cà Mau, từ Trường Sơn đến Hoàng Sa - Trường Sa đã được xác lập. Quá trình mở cõi chủ yếu gắn với vai trò đi tiên phong của người Việt. Nhưng làm nên một quốc gia Việt Namthống nhất, Bắc – Namnối liền một dải, đó là công sức của rất nhiều thế hệ các cộng đồng cư dân trong đại gia đình Việt Nam . Thực chất, quá trình mở cõi của người Việt là quá trình hội nhập giữa các cộng đồng cư dân trên mọi miền đất nước, nhằm mục đích cùng chung sống hoà bình, tăng cường sức mạnh chống kẻ thù chung và tạo điều kiện vươn mình trỗi dậy trên bước đường đi lên của lịch sử.

Xem Thêm

An Giang: 8 giải pháp thực hiện đột phá phát triển khoa học công nghệ
Đến nay, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh (Liên hiệp hội tỉnh) đã tập hợp được 40 hội, tổ chức thành viên với 9.554 hội viên cá nhân, trong đó có hơn 3.451 hội viên trí thức. An Giang xác định và đề ra mục tiêu về đột phá phát triển khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số (KHCN, ĐMST, CĐS) đến năm 2030.
Thanh Hoá: Hội thảo KH về giải quyết tình trạng thiếu lao động ở nông thôn, lao động trực tiếp tham gia SX nông nghiệp
Sáng ngày 27/5/2025, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh (Liên hiệp hội) phối hợp với Sở Khoa học và Công nghệ, Viện Nông nghiêp tổ chức Hội thảo khoa học với chủ đề “Giải pháp giải quyết tình trạng thiếu lao động sản xuất ở khu vực nông thôn, lao động có kỹ thuật, tay nghề cao trực tiếp tham gia sản xuất nông nghiệp, nhất là nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao, nông nghiệp hữu cơ”.
Bình Thuận: Đẩy mạnh ứng dụng khoa học, công nghệ vào sản xuất
Sáng ngày 27/5, tại thành phố Phan Thiết, tỉnh Bình Thuận, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh phối hợp với Sở Khoa học và Công nghệ tỉnh tổ chức hội thảo khoa học với chủ đề “Giải pháp đột phá trong ứng dụng tiến bộ khoa học, công nghệ vào thực tiễn quản lý và sản xuất trên địa bàn tỉnh Bình Thuận”.

Tin mới

Hà Giang: Góp ý dự thảo sửa đổi Luật Chất lượng sản phẩm
Ngày 13/6, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật (Liên hiệp hội) tỉnh đã tổ chức hội thảo góp ý dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Chất lượng sản phẩm, hàng hoá (CLSPHH). Tham dự hội thảo có lãnh đạo đại diện các Sở, ban ngành của tỉnh, các hội thành viên Liên hiệp hộivà các chuyên gia TVPB.
Đại hội thi đua yêu nước Liên hiệp Hội Việt Nam lần thứ V
Đây là sự kiện chính trị quan trọng và có ý nghĩa sâu sắc trong công tác của Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (Liên hiệp Hội Việt Nam), là ngày hội tôn vinh điển hình tiên tiến các tập thể, cá nhân nhà khoa học trong hệ thống Liên hiệp Hội Việt Nam đã nỗ lực phấn đấu, đóng góp cho công tác hội và sự nghiệp KH&CN nước nhà.
THI ĐUA LÀ YÊU NƯỚC!
Năm 2025 không chỉ đánh dấu nhiều ngày lễ trọng đại của đất nước, mà còn là mốc son đưa Việt Nam bước vào một kỷ nguyên mới – kỷ nguyên vươn mình giàu mạnh, thịnh vượng của dân tộc.
Thảo luận, đề xuất các giải pháp phát triển hạ tầng xanh hướng tới xây dựng đô thị bền vững
Ngày 6/6, Liên hiệp Hội Việt Nam phối hợp với Tổng Hội Xây dựng Việt Nam tổ chức Hội thảo Phát triển hạ tầng xanh hướng tới xây dựng đô thị bền vững. Các chuyên gia, nhà khoa học tại hội thảo đã làm rõ vai trò và nhu cầu cấp thiết của phát triển hạ tầng xanh, đồng thời đề xuất nhiều giải pháp về chính sách và công nghệ.