Thành tựu ghép tim trên thế giới
Năm 1963, có được sự hỗ trợ của các loại thuốc ức chế miễn dịch corticoid và azathioprin, nhóm bác sĩ người Mỹ James. D. Hardy và Jacksonthuộc Đại học Mississippi đã dùng tim con vượn để thay tim cho một bệnh nhân 68 tuổi. Nhưng bệnh nhân chết ngay trên bàn mổ.
Trong khi ấy, ở Capte Town nước Cộng hòa Nam Phi, BS Christian Neetheling Barnard thuộc Viện Crotesquire trong những năm 60 đã thực nghiệm ghép tim thành công nhiều lần trên thú vật. Năm 1964, hợp tác với các nhà giải phẫu Liên Xô, ông đã thành công trong việc ghép thêm cho con chó một cái đầu, thành chó hai đầu. Con chó vẫn sống được nhiều ngày. Với những thành công thực nghiệm, đầu năm 1967, BS Barnard mạo hiểm thực hiện hai ca ghép tim khỉ cho người. Kết quả thảm hại, một bệnh nhân chết sau ca mổ 4 giờ, bệnh nhân thứ hai sống được 3 ngày rưỡi. Về mặt kỹ thuật, dù thời gian sống sót quá ngắn nhưng đó là một bước tiến.
Christian Barnard, con người có sự đam mê và ý chí phi thường. Ông cảm thấy bàn tay mình sắp chạm vào đỉnh vinh quang. Không nản lòng, ngày 3/12/1967, nhân có một phụ nữ tử vong do tai nạn giao thông, ông quyết định dùng tim người chết ghép cho bệnh nhân Louis Washkansky. Bệnh nhân sống được 18 ngày trong ngập tràn hạnh phúc của mọi người, nhưng sau đó chẳng may chết vì viêm phổi. Thế là Christian Barnard đã thành công. Ông tìm ra chiếc chìa khóa vàng để ghép tim cho nhân loại và mở đường cho các nhà khoa học thế giới bước vào thực hiện ghép tim đại trà. Thành công chấn động toàn cầu và ông đã được tưởng thưởng xứng đáng. Báo Washington Postđã viết: “Đây là một chiến công vĩ đại của loài người”. Báo François Paris: “Việc các phi công vũ trụ đặt chân lên mặt trăng cũng không gây chú ý của dư luận bằng việc ông Barnard ghép tim thành công.
Thực vậy, một năm sau đó, tiếp nối kinh nghiệm của BS Barnard, nhóm bác sĩ Pháp E. Henry và R. Monties vào ngày 27/11/1968, đã hoàn tất kỹ thuật ghép tim. Nhóm BS Henry ghép tim cho bệnh nhân E. Virgin sống được 13 năm. Cũng trong năm 1968, nhóm bác sĩ Christian Caprone ghép tim cho bệnh nhân Emmanuel Vitra sống được 18 năm.
Nhiều cuộc ghép tim đã diễn ra ở các nước, nhưng kể từ khi ciclosporin được sử dụng làm chất ức chế miễn dịch, việc ghép tim trở nên thường quy với tỷ lệ thành công rất cao. Chẳng những thế, các nhà giải phẫu còn ghép được tim cùng lúc với các tạng khác. Năm 1980, một tin vui đến với người được ghép tim. Bà Teresa ở Pháp, người được ghép tim cách đó 2 năm, nay đã hạ sinh một bé gái khỏe mạnh đặt tên là Selina. Thực tế này đã bác bỏ thành kiến của một số nhà chuyên môn cho rằng, đã ghép tim thì không nên sinh con. Tin vui thứ hai trong cùng năm này là các nhà khoa học Mỹ ở Đại học Colorado tìm ra một dung dịch đặc biệt có đặc tính làm giảm axit aminonabonic ở tim người cho trước khi ghép. Axit này kết hợp với calcium gây nguy hiểm cho người nhận tim.
Cho đến năm 1981, BS Christian Caprone ở Bệnh viện La Piter Salpêtrière, Pháp, đã ghép được 450 quả tim. Tại bệnh viện thường xuyên có 200 người chờ thay tim. Tim hiến tặng không đáp ứng được nhu cầu, các nhà giải phẫu hướng về nguồn tim của hắc tinh tinh, nhưng tất cả đều thất bại.
Ở California, Mỹ, BS Leonard Bailley nổi tiếng về đôi tay khéo léo đối với các quả tim bé nhỏ. Năm 1983, ông đã thực hiện 7 ca liên tiếp ghép tim cho trẻ em dưới 6 tháng tuổi. Kết quả, 3 em chết khi giải phẫu, 4 em sống sót. Hai năm sau, bé Bily Moses được báo chí nhắc đến khi gia đình làm sinh nhận cho em lên 2 tuổi vào tháng 10/1985. Ba bé còn lại không thấy nhắc đến.
Năm 1984, ở Anh, BS Magdi Yaconb ghép tim cho một bé sơ sinh, em bé chỉ sống được 17 ngày. Và ở Tiệp Khắc, các nhà giải phẫu cũng đẽ ghép tim thành công. Cũng trong năm 1984, ở California , Mỹ, đã diễn ra cuộc ghép tim ấn tượng. BS Leonard, mặc dù bị chế nhạo của đồng nghiệp và dư luận, nhưng trong khuôn viên khoa y của Đại học Loma Linda, trong 7 năm, ông đã thực nghiệp thành công 160 lần thay tim trên súc vật. Năm 1984, một bé sơ sinh 14 ngày tuổi, tên Fae bị kém phát triển bẩm sinh tâm nhĩ trái. Đây là một khuyết tật mà các cháu không thể sống quá 1 tháng. Trong tình trạng mà các nhà chuyên môn xác nhận không thể cứu vãn theo cách bình thường, BS Bailley đã đề nghị gia đình để ông thực nghiệm. Ông lấy quả tim của một con khỉ đầu chó 8 tháng tuổi, quả tim nặng 80g và chỉ to bằng trái mận và ghép vào cho bé Fae. Vài ngày sau giải phẫu, cháu bé bình phục và có thể đưa thức ăn vào đường miệng. Bailley đã thành công, trái tim hoạt động tốt tạo ra triển vọng có thể thay tim súc vật cho người. Mặc dù Bailley thành công, các nhà chuyên môn không đồng tình đã bày ra trò đếm từng giờ với thái độ thách thức. Đến ngày 19, những người thách thức đã bị dao động mạnh, vì thời gian sống của bé Fae đã vượt qua ngưỡng 18 mà năm 1967, Christian Barnard đã đạt được thành công trong ca ghép tim lịch sử. Tuy vậy, các cuộc biểu tình vẫn liên tục ầm ĩ ở bên ngoài bệnh viện. Nhiều biểu ngữ đã được giương lên: “BS Bailley! Ngài đã kéo dài sự đau khổ của một đứa bé...”. Nhưng chẳng may, đến ngày thứ 20, cháu Fae không cầm cự nổi phải qua đời vì suy thận, phổi dẫn đến hoại tử tim. BS. Bailley chìm đắm giữa vòng xoáy vinh quang và cay đắng.
Năm 1986, tại Marseille, Pháp, một người đàn ông tên Emanuel Vitria tử nạn giao thông gây chú ý cho giới y học, vì ông là người được ghép tim cách đó 18 năm 5 tháng. Vào năm 1968, ngành ghép tạng chưa có những khám phá mới, 10 ca ghép tim chỉ có 3 người sống sót sau giải phẫu và cũng chỉ được 3, 4 năm. Nhưng ông Vitria là một trường hợp đặc biệt, ông đã sống một thời gian khá dài và nếu ông không tử nạn vì giao thông, không rõ ông có thể sống được bao lâu nữa. Chẳng những thế, sau khi được ghép tim, ông còn tập tạ và đi xe đạp thể thao. Lý do sống lâu và khỏe mạnh của ông Vitria vẫn còn là một bí ẩn y học.
Năm 1986, ở Pháp lại có một bệnh nhân đặc biệt, ông này sống với 3 trái tim. Một trái tim máy Jarvick, một trái tim ghép do người chết hiến tặng và một trái tim của ông mà các nhà giải phẫu đã giữ lại.
Năm 1987, Viện Tim mạch Texasở Houston kỷ niệm 25 năm thành lập. Trong quá trình hoạt động 1962 – 1987, Viện đã thực hiện được 176 ca ghép tim. Ngày kỷ niệm đã có 103 người đã từng được ghép tim ở Viện về tham dự. Ngày 13/1/1987, tại Bệnh viện Lanaec, Paris, BS Jean Iveneuve và Jean Cassener đã ghép tim cho một trẻ sơ sinh 1 tháng tuổi. Ngày 16/10/1987, ở Mỹ, BS Leonard Bailley lại thực hiện một kỳ tích, ông đã lấy một trái tim từ bào thai hiến tặng, ghép cho bé Paul Holy 8 ngày tuổi.
Năm 1988, lại một cố gắng hướng về tạng thú vật, GS Religa đã sử dụng tim lợn ghép thay thế cho một bệnh nhân suy tim giai đoạn cuối, nhưng bệnh nhân chỉ sống được 2 ngày sau ghép.
Năm 1989, có thêm một thuốc ức chế miễn dịch mới Tacrolimus ra đời. Năm 1990, Bs Christopher Feidel ở Canada tìm ra phương pháp bảo quản tim hiến tặng từ 5 giờ lên 8 giờ.
Năm 1995, Đại học Pittburg đã ghép thành công tim lợn cho 3 con khỉ. Sự kiện này được báo Times bình chọn là một trong 10 sự kiện nổi bật nhất năm 1995.
Năm 1996, một thành tựu mới của ngành ghép tim, chị Alberta Pyle mang thai, các bác sĩ khám phá tim của thai nhi bị hỏng nặng không thể cứu chữa theo cách thông thường. Ngày 10/11/1996, nhân có một bé sơ sinh vừa chào đời bị chết, chị Pyle được gọi gấp đến bệnh viện. Các bác sĩ mổ tử cụng lấy thai, Cheyenne Pyle em bé sơ sinh 1 ngày tuổi này đã được ghép quả tim mới sau khi ra đời 1 giờ.
Tại Việt Nam , ngày 3/5/2006, Giám đốc Học viện Quân y Phạm Gia Khánh cho biết, cơ sở này đã thành công ghép tim thực nghiệm trên lợn. Quả tim mới của lợn đã hoạt động ngay sau khi ghép. Theo BS Khánh, Viện đã có đủ cơ sở chuyên môn để ghép tim người khi pháp lệnh về hiến mô tạng có hiệu lực.
Tính đến 1996, thế giới đã thực hiện thành công 25.000 ca ghép tim nhưng chỉ đáp ứng được không quá 10% nhu cầu. Lý do là thiếu tim hiến tạng, vì thế các nhà khoa học đã hướng tới sử dụng tim thú vật và tim nhân tạo.