Thanh hao hoa vàng nguồn dược liệu chưa khai thác hết
Thanh hao hoa vàng có ở 4 tỉnh (20 huyện và hơn 70 xã) như Lạng Sơn, Cao Bằng, Quảng Ninh, Bắc Giang, mỗi tỉnh có chừng 4 - 5 huyện trồng.
Cây thanh hao hoa vàng chứa các hợp chất flavonoid gồm quercetagetin, methylether, tetramethylether... và các coumarin, các dẫn chất polyacetylen.
Thân lá hoa chứa 1,1% tinh dầu gồm 47 thành phần, trong đó có artemisiaceton 52,50%, cineol 11,66% và camphor 10,90%.
Cây còn chứa a-pinen, a-pinen, camphon 23,75%, artemisiaalcol 4% và nhiều chất khác.
Công trình khảo sát này được Viện Hóa học công nghiệp (Bộ Công nghiệp) chú ý, đầu tư công nghệ thiết bị để chiết suất từ lá chất artemisin, dùng làm nguyên liệu cho thuốc trị sốt rét.
Năm 1990, TS. Nguyễn Xuân Dũng và các cộng sự Viện Dược liệu đã đưa ra công bố chi tiết. Sau đó, từ 1991 - 1994, Viện Dược liệu cùng Công ty Dược liệu Trung ương 1, Viện Khoa học Việt Nam và một số đơn vị khác hợp tác sản xuất ở quy mô công nghiệp.
Người ta khai thác cây thanh hao khi cây được 5 tháng tuổi để lá thanh hao hoa vàng cho các hàm lượng cao nhất về artemisinin và acid artemisinic..., sau 5 tháng tuổi các hàm lượng này giảm đi. Hiện nay, các chất này đã được sử dụng rộng rãi.
Lacton sesquiterpen là hoạt tính trị sốt rét của thanh hao hoa vàng, hoạt chất quan trọng chiết suất được là chất endoperoxyd artemisinin sau đó là các dẫn chất đã tìm thấy như đã nói trên.
Artemisinin nhanh chóng làm sạch ký sinh trùng khỏi máu, loại trừ và cải thiện các triệu chứng nhanh hơn chloroquin.
Thử nghiệm của Viện Dược liệu trên chuột nhắt và trên 2.099 bệnh nhân, artemisinin đều có tác dụng tốt, không gây phản ứng phụ.
Ngoài chữa cảm sốt, sốt thương hàn, sốt rét cơn, ong đốt, thanh hao hoa vàng sau khi được chế biến còn chữa được mồ hôi trộm, đái ra máu, chảy máu mũi, kích thích tiêu hóa, chữa phong thấp, nhức mỏi cơ thể, trí não uể oải.
Điều đáng tiếc là thanh hao hoa vàng chỉ trồng tốt ở các tỉnh phía Bắc, sống tự nhiên ở 4 tỉnh vừa nêu. Sau này, từ 1990 các nhà khoa học, có trồng được ở Vĩnh Phúc (Mê Linh, Yên Lạc, Tam Đảo...) Phú Thọ, Tuyên Quang, Bắc Ninh, Hà Tây, Hòa Bình, Hải Dương, Hưng Yên, ngoại thành Hà Nội và bắc Thanh Hóa. Thanh hao ưa sáng và ưa ẩm, chịu úng, chịu hạn kém, thích hợp đất thịt pha cát.
Trồng ở phía Nam , hàm lượng artemisinin rất thấp. Cây nhân giống bằng hạt, hạt thu vào tháng 10 tháng 11 hàng năm khi lá bắt đầu rụng. Cây phải trồng luân canh với các cây khác. Sâu bệnh trên cây thanh hao là không đáng kể. Mỗi hecta trồng có thể cho 3 tấn lá khô.
Nếu Viện Dược liệu chú ý hơn về cây thanh hao chúng có thể là nguồn xuất khẩu đáng kể, vì hiện nay, chỉ có Việt Nam và Trung Quốc là hai nước chiết xuất thanh hao có hiệu quả.
Nguồn: Khoa học phổ thông 28/7/2006