Tảo - nguồn dưỡng chất phong phú
Tảo là nguồn chất hữu cơ phong phú, có thể dùng làm thức ăn cho gia súc và con người. Trung Quốc, Nhật Bản, Indonesiađã chế biến tảo nâu thành rau hay thức ăn được ưa thích. Rau câu, rong thạch, ngoài việc được dùng làm môi trường nuôi cấy vi khuẩn, nấm trong các phòng thí nghiệm, còn là món ăn tráng miệng, món giải khát hấp dẫn trong mùa hè.
| Các tảo thông dụng | Tên thường dùng |
Laminaria japonica(tảo bẹ) | Kombu |
Ở Nhật, canh nấu với rong xà lách (Ulva) là món ăn thường thấy ở các gia đình và cả ở các nhà hàng sang trọng. Cũng như rau cải, tảo rất giàu chất xơ tan và không tan. Tảo còn có khả năng làm giảm nguy cơ mắc các ung thư tiêu hoá, nhờ chất alginat có tác dụng bẫy các ion sắt và đồng đều là yếu tố có khả năng thúc đẩy sự hình thành các gốc tự do ở các tế bào phân chia nhanh như tế bào đại tràng.
![]() |
| Ulva lactuca. |
Tảo còn chứa các acid béo chuỗi dài (acid arachidonic – omega 6, EPA, DHA, omega 3).
Tảo giúp giảm nguy cơ mắc ung thư vú vì có chất iod ức chế sự phát triển các ung bướu. Các tảo nâu cũng có chứa một polysaccharide fucoidane, một hợp chất chống ung thư.
Tảo giúp giảm nguy cơ mắc các bệnh tim mạch, nhờ có chứa các chất xơ tan, các chất chống oxy hoá, các acid béo chuỗi dài, không no. Nhiều nghiên cứu đã xác định tảo có khả năng giảm lượng cholesterol xấu (LDL) ở người bị bệnh đái tháo đường.
Một vi tảo xanh lơ Spirulinacó thể thay thế một số dược phẩm chống cholesterol.
Tảo Wakamé còn chứa các peptid tác động như dược phẩm hạ huyết áp. Ngoài ra, tất cả các loại tảo đều rất giàu kali, một khoáng chất làm hạ huyết áp ở bệnh nhân có huyết áp cao.
Tảo có thể giúp chữa các bệnh thiếu iod gây ra bệnh bướu cổ. Ở Việt Nam, tỷ lệ mắc bướu cổ ở miền núi phía Bắc là 38%, ở miền Trung là 27% và Tây Nguyên là 29%. Nhưng, nhờ bổ sung iod vào muối ăn, số lượng trẻ em đần độn, bướu cổ giảm đáng kể. Vì vậy, việc sử dụng tảo Laminaria giàu iod làm thức ăn rất cần thiết.
Nguồn: Thuốc & Sức khoẻ, số 291,1/9/2005








