Tầm nhìn mới cho tiềm lực khoa học
Lĩnh vực khoa học công nghệ của Hà Nội hiện có bốn đặc điểm lớn và nổi bật, thể hiện được vai trò quan trọng của thành phố này đối với sự phát triển khoa học của cả nước.
Thứ nhất, Hà Nội là nơi tập trung các cơ quan khoa học đầu ngành thuộc hầu hết các lĩnh vực khoa học, không chỉ đảm nhận thực hiện các nhiệm vụ khoa học và công nghệ trọng đại của đất nước, mà còn có vai trò chỉ đạo chuyên môn trong toàn bộ hệ thống khoa học cả nước. Hà Nội cùng với Trung ương, có bảo đảm và tạo đủ điều kiện thật tốt cho các cơ quan khoa học đầu ngành đó hoạt động hay không, sẽ là một trong những nguyên nhân quan trọng đối với việc phát huy vai trò và tác động của khoa học và công nghệ cho sự phát triển toàn diện kinh tế - xã hội của cả nước nói chung cũng như của thủ đô nói riêng.
Thứ hai, Hà Nội là địa bàn có nguồn nhân lực khoa học đông đảo nhất và đầy đủ lĩnh vực chuyên môn nhất, là địa bàn hoạt động thường xuyên của hơn 70% cán bộ khoa học thuộc các cơ quan khoa học của Trung ương và của Hà Nội, trong đó cán bộ khoa học có trình độ cao chiếm đến gần 90% của cả nước. Hà Nội cùng với Trung ương và các địa phương khác, có biết khai thác nguồn nhân lực khoa học đông đảo này hay không, có tin cậy đặt hàng với họ hay không, sẽ là điều kiện rất quyết định để “nuôi sống” nguồn nhân lực này, nguồn “nguyên khí” của quốc gia, để phát huy năng lực sáng tạo khoa học của họ, để nền khoa học nước nhà được phát triển mạnh mẽ.
Thứ ba, Hà Nội là nơi tiếp thu nhiều nhất các kết quả nghiên cứu khoa học để đưa vào thực tiễn ứng dụng, và cũng qua đó có tác động lớn nhất đến phát triển kinh tế - xã hội của cả nước. Những kết quả nghiên cứu lý luận chính trị, nghiên cứu khoa học xã hội và nhân văn, và nghiên cứu các kỹ thuật công nghệ có tầm chiến lược, đều nhằm cung cấp luận cứ khoa học cho các chủ trương và đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước, cũng cho cả Hà Nội và nhiều địa phương trong nước. Vì vậy, Hà Nội và Trung ương tiếp thu và ứng dụng các kết quả nghiên cứu khoa học như thế nào, sẽ thể hiện trong thực tế của thủ đô, của đất nước có những phát triển tốt và bền vững hay không.
Và thứ tư, Hà Nội là đầu mối quan trọng nhất để khoa học và công nghệ trong nước giao tiếp với khoa học thế giới, và cũng là nơi thuận lợi nhất để tiếp nhận các thành tựu khoa học và công nghệ tiên tiến của thế giới đưa vào ứng dụng trong nước.
Với những đặc điểm như vậy, để phát triển mạnh khoa học và công nghệ của Hà Nội theo đúng vai trò là một trung tâm lớn, các chính sách đầu tư để phát triển tiềm lực khoa học của thành phố này là rất quan trọng. Về tiềm lực khoa học ở Hà Nội, trong khuôn khổ bài viết này chỉ xin bàn đến tiềm lực của đội ngũ các nhà khoa học hiện có và đội ngũ các nhà khoa học trong tương lai (là những học sinh, sinh viên còn đang theo học tại các trường đào tạo).
Liên kết đội ngũ khoa học của Trung ương và thành phố
Hệ thống tiềm lực khoa học ở thủ đô gồm cả hệ thống của Trung ương và hệ thống của thành phố, tuy chức năng và phạm vi phục vụ có phần khác nhau, nhưng đều cần cùng liên kết hướng vào phục vụ cho phát triển toàn diện của thủ đô và của quốc gia. Những yêu cầu của chính sách đầu tư phát triển tiềm lực khoa học này là:
a. Trong quy hoạch tổng thể của thủ đô, cần có quy hoạch địa bàn hợp lý một số “vùng khoa học” để tập trung các cơ sở khoa học thành từng cụm (gồm các viện nghiên cứu và các trường đại học); cấp đất cho các cơ sở khoa học của Trung ương theo yêu cầu đủ cho hoạt động tối đa năng lực khoa học của cơ sở, thuận lợi cho quản lý và tổ chức hoạt động. Nên sắp xếp vị trí ở các vùng sao cho tạo ra thuận lợi nhiều nhất trong hoạt động liên kết, như các vùng: khu công nghệ cao Hòa Lạc, vùng Nghĩa Đô, vùng Văn Điển, vùng Trâu Quỳ - Đa Tốn...
b. Khi đầu tư mới các thiết bị khoa học hiện đại cho các cơ sở khoa học của thành phố, nên có sự tham khảo về hệ thống thiết bị của các cơ sở khoa học trung ương đã có để có thể bổ sung cho nhau và cùng khai thác hệ thống thiết bị có hiệu quả cao. Việc phối hợp trong đầu tư thiết bị khoa học này hoàn toàn có thể thực hiện không khó khăn, chỉ cần Nhà nước và thành phố có quy định thống nhất về chính sách tài chính cho khoa học và công nghệ.
c. Về nhân lực khoa học, thành phố chủ động có quy hoạch và kế hoạch đào tạo, dành phần ngân sách cần thiết cho đào tạo để gửi người đến các cơ sở đào tạo trong nước và gửi đi nước ngoài theo những hình thức khác nhau. Một mặt khác, thành phố cần có chủ trương khai thác tiềm lực nguồn nhân lực khoa học của các cơ sở khoa học trung ương, nhất là đội ngũ nhân lực có trình độ cao và những chuyên môn cần cho sự phát triển và tăng cường quản lý đô thị của thành phố.
d. Về nguồn nhân lực thông tin, cả Nhà nước và thành phố cũng như các địa phương khác, cần nhanh chóng xây dựng mạng thông tin khoa học tập trung để cung cấp rộng rãi trên mạng; tập trung việc mua tạp chí khoa học của nước ngoài vào một đầu mối để đưa lên mạng khai thác chung, không đầu tư rải nhiều nơi cùng mua như hiện nay là rất lãng phí kinh phí ngân sách và không có điều kiện đủ cho mua được tất cả các loại tạp chí khoa học của thế giới đã có.
Có cơ chế tuyển chọn và bồi dưỡng nhân tài
Đầu tư bài bản cho việc đào tạo thế hệ trẻ, kịp thời phát hiện các bạn trẻ có “năng lực triển vọng” khi còn đang học trong các trường phổ thông và có giải pháp đầu tư phù hợp để phát triển được những tiềm năng của cá nhân và định hướng nghề nghiệp sớm, sẽ là những biện pháp rất cần thiết cho Hà Nội; và lại càng cần thiết hơn khi Hà Nội thuận lợi để thực thi các biện pháp đó. Những gợi ý dưới đây nên được xem là rất thiết thực.
a. Xây dựng và ban hành tiêu chuẩn chọn nhân tài trong các lĩnh vực, bao gồm cả tiêu chuẩn về tài và tiêu chuẩn về đức. Theo đó, sẽ dễ dàng nhận biết để phát hiện những trường hợp có khả năng đào tạo bồi dưỡng trở thành nhân tài sau này.
b. Đối với số học sinh có “năng lực triển vọng”, số học sinh có học lực khá và giỏi, cần có quy định về phương thức theo dõi thống nhất và kế tiếp nhau trong các bậc học; lập sổ theo dõi riêng cho từng trường hợp và chuyển giao cho trường tiếp theo khi học sinh đó chuyển trường. Nên làm ngay từ bậc tiểu học, một số trường hợp đặc biệt có thể theo dõi ngay khi còn đang ở tuổi mẫu giáo. Cấp sở giáo dục và đào tạo cùng cấp phòng ở quận, huyện nên nắm danh sách các trường hợp này. Có quy định về đánh giá hàng năm đối với từng trường hợp, ghi hồ sơ theo dõi, từ đó dần dần có thể định hướng cho đào tạo, bồi dưỡng với từng trường hợp về chuyên môn khoa học thích hợp nhất.
c. Hà Nội nên mạnh dạn áp dụng một số giải pháp ưu đãi nhất định với số học sinh “triển vọng” này, như: Cho phép những học sinh ở diện “triển vọng” trên đây có thể được học sớm hơn tuổi và có thể được học trước những môn lựa chọn ở các lớp trên; Dành một phần kinh phí đào tạo để đưa số có “triển vọng” đi đào tạo cao hơn ở nơi có điều kiện tốt cho phát huy năng lực đã có, như ở nước ngoài (cần có quy định ràng buộc trách nhiệm của người được nhận học bổng đi học, có thể xã hội hóa chi phí đầu tư này); Có chế độ học bổng ưu đãi cho các học sinh có năng khiếu và thuộc diện “triển vọng”; Tạo các điều kiện cho phát huy năng lực tư duy sáng tạo của số “triển vọng” này như được tạo thuận lợi để giao lưu với khoa học và công nghệ nước ngoài, tham gia vào nghiên cứu các đề tài khoa học, được ưu tiên trong khai thác thông tin tại các thư viện khoa học tổng hợp...
d. Có thêm các chính sách khuyến khích hấp dẫn hơn về thuế, sử dụng đất... cho các hoạt động dịch vụ ký túc xá tư nhân cho sinh viên, học sinh thuê trọ với giá rẻ ở vùng xung quanh các trường đại học, cao đẳng, dạy nghề...








