Tái cơ cấu ngành xây dựng: Cần chọn lĩnh vực và giải pháp ưu tiên
Đánh giá hiện trạng ngành xây dựng, ông Chủng cho rằng chức năng quản lý nhà nước (QLNN) đã bị chia xẻ cho các đối tượng bị quản lý là các chủ thể tham gia thị trường. Do đó, cần làm rõ các “quyền hạn quản lý nhà nước” đã “chuyển nhầm” cho các chủ thể tham gia thị trường là các quyền hạn gì?
Theo ông Chủng, nhu cầu tái cơ cấu trở nên cấp bách khi các doanh nghiệp trong ngành gặp nhiều vấn đề trong cơ cấu khiến tổ chức hoạt động không hiệu quả, thậm chí trì trệ, đứng trước nguy cơ tan rã, phá sản. Tuy nhiên, trong dự thảo đề án, nhiều nguyên nhân xuất phát từ vấn đề “cơ cấu” của doanh nghiệp chưa được đánh giá đầy đủ.
Ông Chủng cho rằng, các doanh nghiệp nhà nước yếu kém trong xây dựng chiến lược và kế hoạch phát triển doanh nghiệp có thương hiệu tạo được lợi thế cạnh tranh trong thị trường xây dựng, nếu có chiến lược hay kế hoạch thì mang tính hình thức do thiếu phương pháp tiếp cận khoa học. Hiện nay, chúng ta không có doanh nghiệp nào (đặc biệt các doanh nghiệp nhà nước) có được uy tín về thương hiệu đủ sức cạnh tranh trên thương trường. Các nhà đầu tư nước ngoài đến Việt Nam đã tìm đến thương hiệu Coteccons hay Hòa Bình khi họ đầu tư vào Việt Nam. Trong khi đó, các doanh nghiệp nhà nước trông chờ chủ yếu vào việc chỉ định thực hiện các dự án thuộc nguồn vốn Nhà nước. Cơ cấu ngành nghề, tính chuyên nghiệp và chuyên môn đang là thách thức của công cuộc tái cơ cấu các doanh nghiệp thuộc ngành.
Tính chuyên nghiệp yếu đang hạn chế khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp nhà nước trong nền kinh tế thị trường đầy thách thức hiện nay. Một đơn vị được chuyên nghiệp sẽ có cơ cấu tổ chức được thiết kế hợp lý, khả năng cho phép doanh nghiệp sử dụng các thông tin từ các bộ phận một cách hiệu quả nhất, và từ đó giúp cho hoạt động phối hợp giữa các đơn vị được chặt chẽ và lãnh đạo điều hành tốt hơn.Sự phối hợp hoạt động trong tổ chức là một nhiệm vụ thuộc chức năng của doanh nghiệp cần tái cơ cấu.
Đội ngũ lãnh đạo của các doanh nghiệp làm việc không hiệu quả. Trưởng ban Chất lượng Tổng hội Xây dựng Việt Nam cho rằng các doanh nghiệp chưa coi trọng việc đào tạo, tuyển lựa chất lượng và có chính sách sử dụng cán bộ quản lý giỏi một cách công khai, minh bạch để quy tụ người quản lý thực sự có năng lực. Họ chưa nhận thức được vai trò của người quản lý trong nền kinh tế thị trường nên hay lạm dụng câu “thừa thày thiếu thợ”. Vấn đề hiện nay là “thày” có ra “thày” đâu mà thiếu. Công tác quản trị nguồn nhân lực: đội ngũ quản lý, đội ngũ công nhân kỹ thuật (hiện nay phần nhiều là nông nhàn) không hợp lý và không có định hướng lâu dài là một một nhiệm vụ quan trọng hàng đầu trong chức năng của doanh nghiệp cần “tái cơ cấu”.
Cơ cấu tài chính chưa phù hợp, chưa chuẩn mực và thiếu các hệ thống, công cụ kiểm soát cần thiết. Đây là một lý do mà nhiều tổ chức, đặc biệt là doanh nghiệp nhà nước cần tái cơ cấu nguồn tài chính để đảm bảo cho doanh nghiệp hoạt động một cách tốt nhất. Cổ phần hóa chậm các doanh nghiệp này cùng tình trạng lo hợp đồng để tồn tại thông qua việc đấu thầu giá không hợp lý dẫn đến các hệ lụy lâu dài cho cơ cấu tài chính của doanh nghiệp này.
Về định hướng tái cơ cấu ngành xây dựng, thời gian từ nay tới năm 2020 chỉ còn 5-6 năm là quá ngắn cho một chiến lược hay một kế hoạch phát triển ngành. Vì vậy, theo ông Chủng, không nên quá kỳ vọng vào một sự thay đổi đột phá nào đó từ đề án tái cơ cấu ngành xây dựng. Ông Chủng cho rằng, nên tập trung vào các mục tiêu cụ thể và khả thi hơn nhằm tạo được các tiền đề cần thiết cho công cuộc “tái cơ cấu” thực sự ngành xây dựng trong các năm kế tiếp. Vì vậy nên chọn một số nội dung cần tái cơ cấu để tạo mũi đột phá.
Góp ý cụ thể cho Đề án, theo ông Chủng, trong nội dung đổi mới tư duy về QLNN, cần bổ sung giải pháp: Biên soạn và ban hành các văn bản hướng dẫn Luật Xây dựng số 50/2014/QH13 trên cơ sở phân định rõ nhiệm vụ QLNN về xây dựng và quy trình thực hiện nhiệm vụ này đảm bảo công tác QLNN tập trung vào quản lý vĩ mô, quản lý theo pháp luật và không can thiệp trực tiếp (quá sâu) vào quá trình sản xuất kinh doanh (ngành xây dựng).
Thực hiện xã hội hóa hoạt động xây dựng cũng là giải pháp để tái cơ cấu ngành. Nhưng thực tế hoạt động xây dựng thời gian qua với sự ra đời của Nghị định 15/2013/NĐ-CP đã có sự đảo lộn đáng kể trật tự này. Các cơ quan QLNN can thiệp sâu (thẩm tra thiết kế, kiểm tra chấp thuận đưa công trình vào sử dụng…) đang nảy sinh khá nhiều bức xúc và chắc chắn sẽ để lại hậu quả lâu dài. “Tại Nhật Bản, công tác xã hội hóa được thực hiện cụ thể như sau: công tác thẩm tra thiết kế kết cấu công trình các tòa nhà thấp hơn 60m được giao cho 64 đơn vị tư vấn được các Thị trưởng chỉ định và đối với các công trình cao trên 60m, 27 đơn vị tư vấn (trong đó có 2 đơn vị tư vấn nước ngoài) được Bộ trưởng chỉ định thực hiện. Việc giám sát và xác nhận sự hoàn thành để đưa công trình vảo sử dụng, 82% số công trình do tư vấn được công nhận thực hiện và 18% số công trình được giám sát bởi các văn phòng xây dựng trược thuộc các cơ quan hành chính cấp tỉnh thực hiện. Như vậy vấn đề xã hội hóa các dịch vụ công cũng cần được coi là mội giải pháp “tái cơ cấu” ngành xây dựng” – ông Chủng nêu ví dụ.
Để cơ cấu lại tổ chức doanh nghiệp theo hướng chuyên nghiệp hóa và chuyên môn hóa, theo ông Chủng, bước đi đầu tiên là phải thực hiện cổ phần hóa các doanh nghiệp nhà nước. Các cổ đông “thông thái” sẽ chọn được người lãnh đạo và Ban lãnh đạo đủ năng lực đưa ra một kế hoạch với các bước đi cụ thể trong giai đoạn đầu và một chiến lược phát triển thương hiệu trong tương lai. Bằng các thay đổi chức năng của các bộ phận cùng quy trình vận hành các nhiệm vụ công khai, minh bạch, dân chủ với cơ chế trả lương phù hợp sẽ là cơ hội xây dựng lại các mô hình doanh nghiệp hiện tại.
Ngoài ra, ông Chủng cho rằng cần đổi công tác nghiên cứu khoa học, công nghệ. Theo đó, cần có một số đề tài thiết thực nhằm đánh giá thực trạng các dự án ảnh hưởng lớn tới an sinh xã hội (nhà ở xã hội), tới phát triển bền vững… làm cơ sở xây dựng các chính sách của ngành. Bên cạnh đó, cần xây dựng các đề tài nghiên cứu dài hơi đón đầu những nhiệm vụ lớn liên quan đến biến đổi khí hậu, các dự án điện hạt nhân, các dự án quan trọng khác...
Quy trình giao, nhận đề tài cũng cần thay đổi trên cơ sở khai thác tối đa sự sáng tạo và trách nhiệm của các cán bộ khoa học, của các cơ sở nghiên cứu, giảm thiểu các công cụ quản lý hành chính không cần thiết…








