Tác động của việc gia nhập WTO đến phân phối thu nhập giữa các nhóm hộ gia đình Việt Nam
I. Giới thiệu
Tác động của tự do hóa thương mại dẫn đến phân phối thu nhập và khoảng cách giàu nghèo giữa các nhóm hộ gia đình, các tầng lớp dân cư ở Việt Nam đã được nhiều nhà nghiên cứu quan tâm trong thời gian gần đây. Lý luận và thực tiễn đều cho thấy tự do hóa thương mại không chỉ tác động mạnh đến dòng đầu tư và thu nhập từ vốn mà quan trọng hơn là ảnh hưởng đến thu nhập của người lao động. Cả hai nhân tố thu nhập từ vốn và từ lao động, cũng như sự thay đổi giá cả các mặt hàng tiêu dùng đều có ảnh hưởng trực tiếp đến sự phân hóa giàu nghèo, tạo ra khoảng cách thu nhập giữa các nhóm hộ gia đình.
Nước ta hiện nay còn là một nước nông nghiệp với 69% lao động xã hội sống bằng nghề nông. Nếu như số lao động có kỹ năng và trình độ cao sống ở thành thị được hưởng lợi nhiều trong khi nông dân phải gánh chịu rủi ro từ quá trình hội nhập của đất nước sẽ khiến chênh lệch giàu nghèo của khu vực thành thị và nông thôn ngày một nới rộng. Bên cạnh đó, tại khu vực thành thị, đa số người nghèo hiện nay làm những công việc có mức lương thấp, điều kiện làm việc thiếu thốn, công việc không ổn định, ít hoặc không có cơ hội thăng tiến nghề nghiệp... Câu hỏi lớn đang đặt ra hiện nay là liệu rằng việc gia nhập WTO có khả năng làm nới rộng khoảng cách thu nhập và phúc lợi giữa các nhóm hộ gia đình sống ở nông thôn và thành thị, cũng như giữa các nhóm hộ cùng sống ở thành thị và cùng sống ở nông thôn. Việc dự báo và phân tích những tác động có thể có của việc gia nhập WTO lên phân phối thu nhập và khoảng cách giàu nghèo giữa các nhóm hộ có khả năng bị thua thiệt là hết sức quan trọng và cấp thiết để Chính phủ đề ra các chính sách hỗ trợ cần thiết cho các đối tượng thuộc diện này.
Ứng dụng mô hình cân bằng tổng thể dạng động (Dynamic Computable General Equilibrium - DCGE), bài báo tính toán ảnh hưởng của việc Việt Nam gia nhập WTO đến phân phối thu nhập và phúc lợi giữa 5 nhóm hộ gia đình tại Việt Nam, trong đó 2 nhóm sống ở thành thị và 3 nhóm sống ở nông thôn. Số liệu được sử dụng để tính toán và mô phỏng dựa trên bảng cân đối liên ngành (I/O) và ma trận hạch toán xã hội (SAM) của Việt Nam năm 2009.
II. Mô hình cân bằng tổng thể và ứng dụng trong phân tích tác động của việc gia nhập WTO đến phân phối thu nhập
Mô hình cân bằng tổng thể (CGE) ngày càng được sử dụng rộng rãi để giải quyết các bài toán kinh tế ở tầm vĩ mô. Mô hình thường được xây dựng dựa vào giả định rằng, trong nền kinh tế thị trường tự do cạnh tranh, người sản xuất căn cứ vào giá các yếu tố sản xuất và giá sản phẩm bán ra để xác định mức sản lượng sản xuất (lượng cung) nhằm tối đa hóa lợi nhuận; người tiêu dùng căn cứ vào mức thu nhập và giá mua từng loại hàng hóa trên thị trường để xác định mức tiêu dùng (lượng cầu) đối với từng loại hàng hóa nhằm đạt được mức hữu dụng cao nhất. Giá cả của từng loại hàng hóa, chi phí sử dụng vốn, mức lương và tỷ giá hối đoái được xác định thông qua mối quan hệ cung cầu trên các thị trường.
Trong ứng dụng mô hình CGE, nền kinh tế ban đầu được giả định đang ở vị trí cân bằng, nghĩa là với mức giá cả hiện tại, tổng cung của tất cả các loại hàng hóa, lao động và ngoại tệ đang ở thế cân bằng với tổng cầu của nó. Qua “cú sốc” - trong trường hợp này là sự cắt giảm của hàng rào thuế quan, phương pháp CGE cho phép xác định điểm cân bằng mới của nền kinh tế, từ đó tính toán, so sánh với điểm cân bằng cũ để thấy được sự thay đổi của các ngành, cho phép tính toán được những ảnh hưởng đến thu nhập từ vốn, lao động, trợ cấp của Chính phủ và chuyển giao từ nước ngoài đến từng nhóm hộ gia đình. Bên cạnh đó, mô hình cũng tính toán sự thay đổi giá cả các mặt hàng tiêu dùng. Sự thay đổi của thu nhập và giá cả các loại hàng hóa là hai nhóm nhân tố tác động đến mức sống thực tế (phúc lợi) của các nhóm hộ. Đối với mô hình CGE động, nền kinh tế không chỉ hướng đến cân bằng trong ngắn hạn mà còn dịch chuyển theo thời gian để hướng đến cân bằng trong dài hạn. Việc cắt giảm thuế nhập khẩu của các ngành ảnh hưởng đến thu nhập và mức sống (phúc lợi) của các nhóm hộ gia đình được thực hiện theo một cơ chế rất phức tạp, thông qua nhiều mối quan hệ ràng buộc và tác động qua lại, lan truyền qua nhiều khâu, nhiều vòng cho đến khi đạt được điểm cân bằng mới trong dài hạn. Cơ chế tác động lan tỏa này có thể giải thích trên một số mặt cơ bản sau đây: (1) Việc cắt giảm thuế suất thuế nhập khẩu trước hết sẽ tác động chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Về mặt lý thuyết lẫn thực tiễn, những ngành có lợi thế sẽ có cơ hội phát triển nhanh hơn trong khi đó nhiều ngành không có lợi thế hoặc được bảo hộ cao trước đây có thể phải cắt giảm đầu tư và thu hẹp qui mô sản xuất dưới sức ép cạnh tranh của hàng ngoại nhập. Thay đổi cơ cấu sản xuất sẽ tác động trực tiếp đến công ăn việc làm, mức lương và thu nhập của lao độngtrong từng ngành. (2) Thay đổi giá cả các yếu tố sản xuất đầu vào trong một số ngành do giá nguyên vật liệu và thiết bị nhập khẩu giảm dẫn đến hiệu quả kinh tế của từng ngành cũng sẽ thay đổi, điều này sẽ tác động đến thu nhập từ vốncủa các nhóm hộ gia đình. Nhóm hộ gia đình nào sở hữu nhiều vốn sẽ bị ảnh hưởng của tác động này nhiều hơn các nhóm hộ khác. (3) Chuyển dịch cơ cấu đầu tư theo các ngành và thay đổi nhu cầu về vốn đầu tư của nền kinh tế trong dài hạn sẽ tác động đến những thay đổi trong quan hệ cung - cầu vốn đầu tư, dẫn đến những chính sách tiết kiệmvà vay nợtừ nước ngoài (bao gồm cả dòng vốn FDI) của các nhóm hộ gia đình. Những thay đổi này có ảnh hưởng đến tỷ lệ thu nhập dành cho tiêu dùng và tỷ lệ tiết kiệm dùng cho đầu tư, cũng như lãi vay phải trả do vay nợ nước ngoài của từng nhóm hộ và do vậy sẽ tác động đến mức sống của các nhóm hộ. (4) Việc cắt giảm thuế nhập khẩu sẽ có ảnh hưởng đến nguồn thu ngân sách của Chính phủ trong ngắn hạn, và do vậy ít nhiều sẽ tác động đến tiêu dùng của Chính phủ cũng như các khoản trợ cấp của Chính phủcho các nhóm hộ gia đình. (5) Về giá cả hàng hóa: Do cắt giảm thuế nhập khẩu nên giá cả các mặt hàng nhập khẩu trở nên rẻ hơn; sự thay đổi trong hoạt động xuất nhập khẩu cũng tác động lớn đến cung và cầu ngoại tệ, ảnh hưởng đến sự thay đổi của tỷ giá hối đoáivà do đó ảnh hưởng đến giá cả của hàng hóa nhập khẩu tính theo đồng nội tệ; giá cả của hàng hóa sản xuất trong nước cũng có nhiều biến động... Giá cả các mặt hàng tiêu dùng thay đổi một cách tương đối là nhân tố quan trọng tác động đến hành vi tiêu dùng và mức sống của người dân. Có thể nhận thấy nếu thu nhập tăng lên, nhưng giá cả các mặt hàng thiết yếu, chiếm tỷ trọng lớn trong cơ cấu tiêu dùng của một nhóm hộ nào đó cũng tăng theo có thể làm cho thu nhập thực tế (hoặc mức sống) của nhóm hộ này giảm xuống. (6) Thay đổi trong cơ cấu tiêu dùng của các nhóm hộ, đến lượt nó lại ảnh hưởng đến hoạt động sản xuất của các ngành. Ngoài ra, mỗi ngành sản xuất sử dụng đầu vào từ rất nhiều ngành khác nhau. Đầu vào của ngành này lại là đầu ra của ngành khác, vì vậy khi có sự thay đổi về qui mô sản xuất của một ngành do những tác động nêu trên, sẽ kéo theo sự thay đổi của nhiều ngành trong nền kinh tế... Các mô hình cân bằng bộ phận ( Partial Equilibrium) không cho phép đo lường và mô phỏng cơ chế tác động và lan truyền phức tạp này. Do vậy, để đo lường sự thay đổi và chuyển dịch về thu nhập và mức sống của các nhóm hộ dưới tác động của một cú sốc kinh tế nói chung và việc thay đổi thuế suất thuế nhập khẩu nói riêng, người ta phải sử dụng mô hình cân bằng tổng thể ( General Equilibrium).
Mô hình CGE được sử dụng để tính toán trong bài báo này là mô hình động, chuẩn cho nền kinh tế mở, qui mô nhỏ, chấp nhận giá và cạnh tranh theo định hướng thị trường. Cấu trúc lý thuyết của mô hình được xây dựng trên cơ sở các nghiên cứu của Dervis de Melo, và Robinson (1982), Vargas, Schreiner và cộng sự (1999), Hosoe (2001), Chen (2004). Mô hình bao gồm ba khối cân bằng: Khối cân bằng động, khối cân bằng tạm thời và khối cân bằng dài hạn, cho phép mô phỏng hoạt động và mối quan hệ trong dài hạn của năm thực thể chủ yếu của nền kinh tế: Doanh nghiệp, chính phủ, hộ gia đình, hoạt động đầu tư và phần còn lại của thế giới (ROW).
Một trong những đặc trưng quan trọng là mô hình này bao gồm đa nhóm hộ gia đình nên phù hợp để mô phỏng và tính toán tác động đến việc phân phối thu nhập cho từng nhóm hộ. Trong mô hình, có 5 nhóm hộ gia đình, trong đó 3 nhóm hộ ở nông thôn (làm nghề nông - lâm - ngư nghiệp, làm công ăn lương và làm nghề tự do) và 2 nhóm hộ ở thành thị (làm công ăn lương và làm nghề tự do); 12 thị trường lao động, được phân chia theo giới tính (nam/nữ), địa bàn (nông thôn/ thành thị) và trình độ tay nghề (trình độ cao/ có tay nghề/ lao động phổ thông), 25 thị trường hàng hóa và một thị trường ngoại hối. Tổ hợp giá cân bằng được xác định khi tất cả các thị trường đạt được trạng thái cân bằng. Cấu trúc cơ bản của mô hình được trình bày cụ thể trong các nghiên cứu của Toàn (2006, 2011). Trong mô hình CGE động, thu nhập từ lao động được phân phối cho từng nhóm hộ theo một tỷ lệ cố định. Trong khi đó, khác với mô hình tĩnh, thu nhập từ vốn được phân phối cho các nhóm hộ tỷ lệ với lượng vốn sở hữu của từng nhóm hộ.
III. Kết quả mô phỏng
Để nghiên cứu riêng tác động của việc gia nhập WTO đến thay đổi về thu nhập của các nhóm hộ gia đình, bài viết chỉ thực hiện mô phỏng việc cắt giảm thuế nhập khẩu của các ngành theo mức cam kết đến năm 2020, tất cả các yếu tố khác giữ nguyên không thay đổi. Kết quả mô phỏng được trình bày trên các mặt tác động chủ yếu sau đây:
Tác động đến thu nhập từ vốn
Mô hình giả định rằng, vốn của nền kinh tế được sở hữu bởi các nhóm hộ gia đình. Tỷ trọng vốn sở hữu của từng nhóm hộ trong từng ngành là khác nhau, vì vậy sự thay đổi trong đầu tư và tích lũy vốn của các ngành sẽ ảnh hưởng đến sự thay đổi lượng vốn sở hữu bởi các nhóm hộ. Kết quả mô phỏng cho thấy dưới tác động của việc gia nhập WTO, các nhóm hộ làm nghề tự do ở thành thị, làm nghề nông - lâm - ngư nghiệp và làm nghề tự do ở nông thôn được dự đoán sẽ có khuynh hướng sở hữu nhiều vốn hơn và do đó có điều kiện tăng thu nhập từ vốn. Trong khi đó các nhóm hộ làm công ăn lương ở cả thành thị và nông thôn sẽ sở hữu ít vốn hơn và nhận được ít thu nhập từ vốn hơn so với trước khi gia nhập WTO.
Kết quả mô phỏng cho thấy, trong dài hạn dưới tác động của việc gia nhập WTO, tổng thu nhập từ vốn mỗi năm tăng thêm được 7.759 tỷ đồng. Trong đó các nhóm hộ làm nghề tự do ở thành thị có mức thu nhập từ vốn tăng lên nhanh nhất (3.585 tỷ). Nhóm hộ làm nghề nông - lâm - ngư nghiệp cũng có sự tích lũy và tăng vốn rất cao (3.652 tỷ). Tuy nhiên, do số lượng các hộ làm nghề nông - lâm - ngư nghiệp chiếm đa số nên qui mô tích lũy vốn và mức tăng thu nhập từ vốn cho bình quân từng hộ không nhiều. Các nhóm hộ làm công ăn lương ở cả nông thôn và thành thị có mức thu nhập từ vốn giảm.
Bảng 1:Thay đổi lượng vốn tích lũy và thu nhập từ vốn của các nhóm hộ gia đình
ĐVT: Tỷ đồng
STT | Nhóm hộ gia đình | Vốn tích lũy | Thu nhập từ vốn | ||
Thay đổi | % | Thay đổi | % | ||
1 | Nghề nông - lâm - ngư nghiệp | 28.433 | 7,21 | 3.652 | 5,52 |
2 | Làm nghề tự do ở nông thôn | 6.279 | 6,15 | 861 | 4,61 |
3 | Làm công ăn lương ở nông thôn | -217 | -0,57 | -142 | -2,18 |
4 | Làm nghề tự do ở thành thị | 24.820 | 11,14 | 3.585 | 8,40 |
5 | Làm công ăn lương ở thành thị | 120 | 0,19 | -197 | -1,26 |
Tổng cộng | 59.435 | 7,26 | 7.759 | 5,41 | |
Nguồn: Tác giả tự tính toán từ mô phỏng mô hình
Tác động đến cơ cấu kinh tế, mức lương và thu nhập từ lao động
Dưới tác động của việc gia nhập WTO, giá trị sản xuất của cả nước trong dài hạn sẽ tăng lên 59.392 tỷ đồng, tương ứng với mức tăng 4,66% so với năm gốc. Trong đó, ngành chế biến thủy sảncó tốc độ tăng nhanh nhất (52,97%). Ngành đánh bắt và nuôi trồng thủy sảncũng có tốc độ tăng nhanh (22,72%). Do thế mạnh của Việt Nam là kinh tế biển, cho nên có thể nhận thấy việc gia nhập WTO sẽ có tác động tích cực đến các ngành chế biến thủy sản và đánh bắt nuôi trồng thủy sản một cách rõ nét nhất. Các ngành công nghiệp khai thác, sản xuất thiết bị phụ tùng, dệt may, giày da, thương mạivà vận tảilà những ngành có thể được hưởng những lợi thế để phát triển. Giá trị sản xuất của các ngành này đều được dự đoán sẽ tăng trưởng đánh kể trong dài hạn. Các ngành sản xuất ôtô, xe máy, công nghiệp chế tạo, và một số ngành dịch vụcó thể phải đối mặt với khó khăn. Kết quả mô phỏng cho thấy giá trị sản xuất của các ngành này có sự suy giảm trong thời hạn. Nhìn chung trong những năm đầu tiên sau khi gia nhập WTO, các ngành thâm dụng lao động và dựa vào tài nguyên thiên nhiên sẽ có cơ hội mở rộng sản xuất và xuất khẩu. Trong khi đó, một số ngành thâm dụng vốn sẽ gặp khó khăn vì phải cạnh tranh với các mặt hàng nhập khẩu, do vậy phải thu hẹp sản xuất hoặc tăng trưởng với qui mô chậm.
Một khi các ngành thâm dụng lao động có cơ hội tăng trưởng nhanh và mở rộng đầu tư, phát triển qui mô sản xuất và xuất khẩu, sẽ tăng nhu cầu về các loại lao động và do vậy mức lương của các loại lao động đều được dự đoán sẽ tăng. Do sự mở rộng của ngành đánh bắt thủy sản và khai khoáng, nhu cầu đối với loại lao động phổ thông nam ở nông thôn tăng nhanh, dẫn đến mức lương của loại lao động này tăng nhiều nhất (khoảng 6%). Đối với các loại lao động khác, mức tăng lương ở nông thôn đều thấp hơn so với thành thị. Mức lương của loại lao động nữ có tay nghề cao ở thành thị cũng sẽ được dự đoán sẽ tăng nhanh (5,76%) do sự phát triển nhanh của các ngành sản xuất và chế biến sử dụng nhiều lao động nữ, như chế biến thủy sản, dệt may, giày da và thương mại. Sự gia tăng mức lương của tất cả các loại lao động với tốc độ khác nhau sẽ tác động trực tiếp đến thu nhập từ lao động của các nhóm hộ gia đình.
Kết quả mô phỏng trên Bảng 2 cho thấy thu nhập từ lao động của tất cả các nhóm hộ đều tăng, tuy nhiên các hộ gia đình ở nông thôn nhận được một sự cải thiện về thu nhập từ lao động nhanh hơn các nhóm hộ ở thành thị. Thu nhập từ lao động của nhóm hộ làm nghề tự do ở nông thôn tăng nhanh nhất (5,47%), tiếp theo là nhóm hộ làm nghề nông - lâm - ngư nghiệp (5,28%) và nhóm hộ làm công ăn lương ở nông thôn (5,06%).
Bảng 2:Tác động đến thu nhập từ lao động của các nhóm hộ
ĐVT: Tỷ đồng
TT | Nhóm hộ gia đình | Thu nhập từ lao động | |
Thay đổi | % | ||
1 | Nghề nông - lâm - ngư nghiệp | 4.745 | 5,28 |
2 | Làm nghề tự do ở nông thôn | 1.672 | 5,47 |
3 | Làm công ăn lương ở nông thôn | 1.012 | 5,06 |
4 | Làm nghề tự do ở thành thị | 1.874 | 4,83 |
5 | Làm công ăn lương ở thành thị | 1.896 | 4,99 |
Tổng cộng | 11.199 | ||
Nguồn: Tác giả tự tính toán từ mô phỏng mô hình
Tác động đến các khoản trợ cấp từ Chính phủ và chuyển giao từ nước ngoài
Trong giai đoạn đầu gia nhập WTO, dưới tác động của việc cắt giảm thuế nhập khẩu, ngân sách Nhà nước dự kiến giảm khoảng 7,21%. Trong dài hạn, mức giảm này được cải thiện dần và cuối dùng dừng lại ở mức giảm 4,87% so với thời kỳ trước khi gia nhập WTO. Mô hình giả định rằng, trợ cấp của chính phủ cho các nhóm hộ gia đình được tính bằng một tỷ lệ cố định trên tổng thu ngân sách của chính phủ. Do vậy, việc giảm thu ngân sách của chính phủ sẽ ảnh hưởng đến trợ cấp của chính phủ cho các nhóm hộ theo tỷ lệ tương ứng.
Chuyển giao từ nước ngoài chủ yếu từ nguồn kiều hối do bà con Việt kiều gởi về hàng năm. Việc tăng phần chuyển giao từ nước ngoài (1,36%) đối với tất cả các nhóm hộ là do có sự tăng tỷ giá hối đoái dưới tác động của việc gia nhập WTO. Các nhóm hộ làm công ăn lương ở thành thị và nhóm làm nông - lâm - ngư nghiệp nhận được lượng kiều hối nhiều hơn so với các nhóm khác.
Bảng 3:Tác động đối với các khoản trợ cấp của chính phủ và từ nước ngoài
ĐVT: Tỷ đồng
STT | Nhóm hộ gia đình | Vốn tích lũy | Thu nhập từ vốn | ||
Thay đổi | % | Thay đổi | % | ||
1 | Nghề nông - lâm - ngư nghiệp | -985 | -4,87 | 235 | 1,36 |
2 | Làm nghề tự do ở nông thôn | -172 | -4,87 | 31 | 1,36 |
3 | Làm công ăn lương ở nông thôn | -81 | -4,87 | 39 | 1,36 |
4 | Làm nghề tự do ở thành thị | -617 | -4,87 | 45 | 1,36 |
5 | Làm công ăn lương ở thành thị | -128 | -4,87 | 138 | 1,36 |
Tổng cộng | -1.983 | -4,87 | 488 | 1,36 | |
Nguồn: Tác giả tự tính toán từ mô phỏng mô hình
Tác động đến tiết kiệm và thanh toán lãi vay của các khoản nợ nước ngoài
Mô hình giả định rằng, các nhóm hộ gia đình phải đánh đổi giữa tiêu dùng hiện tại và tiết kiệm hoặc vay nợ từ nước ngoài để đầu tư sao cho tối đa hóa lợi ích trong dài hạn. Các nhóm hộ gia đình sở hữu nhiều vốn sẽ thu được nhiều thu nhập từ vốn, tuy nhiên các nhóm hộ này cũng phải tiết kiệm hoặc phải vay nợ nhiều để đầu tư nhằm duy trì lượng vốn ổn định trong dài hạn. Nhóm hộ làm nghề tự do ở thành thị nhận được mức tăng thu nhập từ vốn là lớn nhất nhưng cũng phải tiết kiệm với một tỷ lệ cao nhất. Các nhóm hộ làm công ăn lương ở cả thành thị và nông thôn được dự đoán sẽ giảm tỷ lệ tiết kiệm so với thời kỳ trước khi gia nhập WTO. Kết quả mô phỏng cho thấy nhóm hộ làm công ăn lương ở thành thị và nhóm hộ nông - lâm - thủy sản gánh chịu nhiều nợ nước ngoài hơn các nhóm hộ khác và do vậy phải gánh chịu nhiều lãi vay hàng năm.
Bảng 4:Tác động dài hạn đến tiết kiệm và lãi vay của các nhóm hộ
ĐVT: Tỷ đồng
TT | Nhóm hộ | Tiết kiệm | Nợ nước ngoài và lãi vay | ||||
Nợ nước ngoài | Lãi vay | ||||||
Thay đổi | % | Thay đổi | % | Thay đổi | % | ||
1 | Nghề nông - lâm - ngư nghiệp | 2.213 | 5,72 | 48.524 | 15,21 | 2.856 | 15,21 |
2 | Làm nghề tự do ở nông thôn | 496 | 4,57 | 13.579 | 13,95 | 754 | 13,95 |
3 | Làm công ăn lương ở nông thôn | -79 | -1,85 | 2.815 | 9,12 | 133 | 9,12 |
4 | Làm nghề tự do ở thành thị | 1.134 | 8,71 | 38.138 | 18,56 | 2.917 | 18,56 |
5 | Làm công ăn lương ở thành thị | -95 | -1,31 | 5.987 | 9,57 | 358 | 9,57 |
Tổng cộng | 3.669 | 5,63 | 109.043 | 15,12 | 6.298 | 15,12 | |
Nguồn: Tác giả tự tính toán từ mô phỏng mô hình
Tác động đến ngân sách tiêu dùng của các nhóm hộ gia đình
Ngân sách dành cho tiêu dùng của các nhóm hộ gia đình được xác định bằng cách trừ ra khỏi tổng thu nhập của từng nhóm hộ phần tiết kiệm để đầu tư và phần lãi vay phải trả hàng năm. Kết quả mô phỏng cho thấy tổng ngân sách dành cho tiêu dùng của cả nước tăng lên 6.496 tỷ đồng, tương ứng với mức tăng 2,01% so với trước khi gia nhập WTO. Ngân sách dành cho tiêu dùng của tất cả các nhóm hộ đều được cải thiện.
Tuy nhiên, mức độ cải thiện về ngân sách dành cho tiêu dùng của từng nhóm hộ là không đồng đều nhau, các nhóm hộ làm nghề tự do ở thành thị và làm nông - lâm - ngư nghiệp phải thanh toán một khoản lãi vay rất lớn nên phần ngân sách dành cho tiêu dùng không được nhiều như các nhóm hộ khác. Khuynh hướng chung là các nhóm hộ có tỷ trọng thu nhập từ lao động lớn sẽ có cơ hội cải thiện ngân sách dành cho tiêu dùng nhiều hơn nhóm hộ sở hữu nhiều vốn. Điều này là nhờ vào sự tăng mức lương của tất cả các loại lao động, trong khi đó tỷ suất lợi nhuận trên vốn sẽ giảm 1,6% trong dài hạn.
Bảng 5:Tác động đến thay đổi các nguồn thu nhập và phân phối thu nhập
ĐVT: Tỷ đồng
Làm nông lâm ngư | Làm nghề tự do ở nông thôn | Làm công ăn lương ở nông thôn | Làm nghề tự do ở thành thị | Làm công ăn lương ở thành thị | Cả nước | ||
Nguồn thu nhập | Thu nhập từ vốn | 3.652 | 861 | -142 | 3.585 | -197 | 7.759 |
Thu nhập từ lao động | 4.745 | 1.672 | 1.012 | 1.874 | 1.896 | 11.199 | |
Trợ cấp của Chính phủ | -985 | -172 | -81 | -617 | -128 | -1.983 | |
Chuyển giao từ nước ngoài | 235 | 31 | 39 | 45 | 138 | 488 | |
Tổng cộng thu nhập | 7.647 | 2.392 | 828 | 4.887 | 1.709 | 17.463 | |
Phân phối | Tiết kiệm | 2.213 | 496 | -79 | 1.134 | -95 | 3.669 |
Trả lãi vay | 2.856 | 754 | 133 | 2.197 | 358 | 6.298 | |
Cộng tiết kiệm và lãi vay | 5.069 | 1.250 | 54 | 3.331 | 263 | 9.967 | |
Ngân sách cho tiêu dùng | 2.578 | 1.142 | 774 | 1.556 | 1.446 | 7.496 | |
Phần trăm thay đổi | 1,71 | 2,74 | 3,36 | 1,92 | 3,22 | 2,01 |
Nguồn: Tác giả tự tính toán từ mô phỏng mô hình
Tác động đến giá cả hàng hóa và tiêu dùng của các nhóm hộ
Hệ thống giá cả của các mặt hàng có sự thay đổi rất đáng kể dưới tác động của việc gia nhập WTO. Kết quả mô phỏng cho thấy giá của các mặt hàng được sản xuất bởi các ngành chế biến thủy sản, ô tô xe máy và điện gia dụng sẽ giảm một cách tương đối. Sản phẩm của các ngành sản xuất và dịch vụ khác như sản phẩm của ngành lâm nghiệp, trồng trọt, chăn nuôi và chế biến thực phẩm trở nên đắt hơn. Việc tăng giá các mặt hàng lương thực và thực phẩm được dự đoán sẽ ảnh hưởng không thuận lợi đến mức sống của các nhóm hộ gia đình sống ở vùng nông thôn nhiều hơn so với các nhóm hộ gia đình sống ở thành thị, vì nhóm hàng lương thực thực phẩm chiếm tỷ trọng lớn trong cơ cấu tiêu cùng của các hộ sống ở nông thôn. Các nhóm hộ ở thành thị sẽ được hưởng lợi nhiều hơn do giá cả các mặt hàng ô tô, xe máy, điện máy, hàng tiêu dùng gia đình có xu hướng giảm vì tỷ trọng tiêu dùng các mặt hàng này khá lớn trong cơ cấu tiêu dùng của các nhóm hộ sống ở thành thị.
Tác động tổng hợp đến mức sống của các nhóm hộ gia đình
Để so sánh một cách tổng hợp mức độ thỏa mãn (mức sống) của các nhóm hộ trước và sau khi gia nhập WTO, bài viết sử dụng chỉ tiêu mức biến đổi tương đương (Equivalent Variations - EV) để đo lường sự thay đổi độ thỏa mãn mà mỗi nhóm hộ được hưởng. Chỉ tiêu này được xác định như sau:
Trong đó chỉ số r biểu thị cho mỗi nhóm hộ gia đình, U 0rvà Y 0rlà mức độ thỏa dụng và thu nhập của mỗi nhóm hộ ở năm gốc, U trlà mức độ thỏa dụng ở năm t, r Tlà lãi suất trong dài hạn.
Kết quả mô phỏng được trình bày trên Bảng 6 cho thấy dưới tác động của việc gia nhập WTO, mức sống của tất cả các nhóm hộ gia đình đều được cải thiện. Việc cải thiện mức sống của tất cả các nhóm hộ bao gồm cả các nhóm hộ ở nông thôn cho thấy ảnh hưởng tích cực do tăng ngân sách dành cho tiêu dùng của tất cả các nhóm hộ đủ lớn để triệt tiêu ảnh hưởng bất lợi của việc thay đổi mức giá của hàng hóa tiêu dùng. Có thể xem đây là một dấu hiệu rất tốt cho thấy tất cả các nhóm hộ gia đình đều được hưởng lợi từ việc gia nhập WTO, tuy rằng lợi ích mang lại cho từng nhóm hộ được mô hình dự đoán là không đồng đều nhau.
Bảng 6:Tác động đến mức sống của các nhóm hộ gia đình
ĐVT: Tỷ đồng
TT | Nhóm hộ | Tỷ trọng trong tổng dân số (%) | Thay đổi mức sống | % thay đổi so với trước khi gia nhập WTO |
1 | Nghề nông - lâm - ngư nghiệp | 68,82 | 23.571 | 1,09 |
2 | Làm nghề tự do ở nông thôn | 4,44 | 13.125 | 2,22 |
3 | Làm công ăn lương ở nông thôn | 4,31 | 11.357 | 2,41 |
4 | Làm nghề tự do ở thành thị | 12,17 | 16.095 | 1,71 |
5 | Làm công ăn lương ở thành thị | 10,26 | 24.158 | 2,98 |
Tổng cộng | 76.321 | |||
Nguồn: Tác giả tự tính toán từ mô phỏng mô hình
Nhóm hộ làm nghề nông - lâm - ngư chiếm tỷ trọng gần 70% dân số cả nước có sự cải thiện về mức sống thấp nhất (1,09%), trong khi đó nhóm hộ làm công ăn lương ở thành thị có sự cải thiện cao nhất (2,98%). Bởi vì sự thay đổi giá cả các mặt hàng tiêu dùng có ảnh hưởng bất lợi đối với các nhóm hộ sống ở nông thôn hơn đối với các nhóm hộ ở thành thị nên mức tiêu dùng thực tế (mức sống) của các nhóm hộ gia đình sống ở nông thôn bị tác động theo chiều hướng bất lợi. Mặc dù ngân sách dành cho tiêu dùng của nhóm hộ làm công ăn lương ở nông thôn tăng nhanh hơn so với nhóm hộ làm công ăn lương ở thành thị (3,36% so với 3,22%), nhưng mức tiêu dùng thực tế của các hộ làm công ăn lương sống ở nông thôn vẫn thấp hơn so với nhóm hộ làm công ăn lương ở thành thị (2,41% so với 2,98%).
Trong khi nhóm hộ làm công ăn lương ở thành thị được hưởng lợi nhiều nhất (2,98%) thì nhóm hộ làm nghề tự do ở thành thị có sự cải thiện về mức sống khiêm tốn hơn (1,71%). Điều này có thể giúp dự đoán khoảng cách về thu nhập và phúc lợi giữa 2 nhóm hộ ở thành thị có thể được thu hẹp. Nhóm hộ làm công ăn lương ở thành thị vốn được xem là có mức sống thấp hơn nhóm hộ làm nghề tự do (bao gồm cả những người kinh doanh, buôn bán, chủ doanh nghiệp...) sẽ có cơ hội rút ngắn khoảng cách về mức sống. Kết quả mô phỏng cũng cho thấy khoảng cách thu nhập giữa các nhóm hộ gia đình ở nông thôn sẽ bị nới rộng bởi vì mức sống của nhóm hộ gia đình làm nghề nông - lâm - ngư nghiệp (vốn được xem là rất thấp) được cải thiện không nhiều (1,09%) so với các nhóm hộ khác ở nông thôn (2,22% và 2,41%).
IV. Kết luận
Sự thay đổi về ngân sách dành cho tiêu dùng và sự biến động của giá cả các mặt hàng tiêu dùng là hai nhóm nhân tố cơ bản quyết định đến mức sống thực tế của các nhóm hộ gia đình. Mô hình cân bằng tổng thể cho phép mô phỏng tác động của việc hạ thấp hàng rào thuế quan theo cam kết khi gia nhập WTO đến thu nhập và ngân sách dành cho tiêu dùng của từng nhóm hộ, sự biến động về giá cả của các mặt hàng tiêu dùng, trên cơ sở đó tính toán và so sánh mức độ thỏa mãn (mức sống) của các nhóm hộ trước và sau khi gia nhập WTO. Kết quả cho thấy mức sống của cả 5 nhóm hộ đều được cải thiện, tuy nhiên mức độ cải thiện không đồng đều giữa các nhóm hộ. Mức sống và khoảng cách giàu nghèo giữa thành thị và nông thôn cũng như giữa các nhóm hộ sống ở nông thôn có nguy cơ bị nới rộng. Trong khi đó khoảng cách về mức sống giữa hai nhóm hộ sống ở thành thị có thể được thu hẹp. Nông dân (bộ phận chiếm tỷ trọng lớn nhất) có sự cải thiện về mức sống ít nhất so với các nhóm hộ khác.
Việc phân tích những tác động có thể có của việc gia nhập WTO lên phân phối thu nhập và khoảng cách giàu nghèo giữa các nhóm hộ gia đình đã cung cấp một kết quả nghiên cứu thực chứng cho thấy rằng nông dân (bao gồm cả những người làm nông - lâm - ngư nghiệp) là những đối tượng có khả năng bị thua thiệt. Một chính sách công bằng là phải bảo đảm cho mọi người dân phải được thừa hưởng các thành quả của sự phát triển. Nhằm quán triệt và thực hiện thật tốt chủ trương của Đảng: “Tăng trưởng kinh tế đi đôi với xóa đói, giảm nghèo, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước phát triển”, nhà nước cần có những chính sách hữu hiệu để hỗ trợ cho nhóm hộ gia đình nông dân để khoảng cách về mức sống giữa nông thôn và thành thị cũng như giữa các nhóm hộ sống ở nông thôn không quá chênh lệch và ngày càng được thu hẹp dần./.








