Sự tích về chiếc gầu giai và đôi quang giành
Theo truyền thuyết địa phương về ông tổ gầu giai thì thời vua Lê chúa Trịnh chiến tranh liên tiếp nổ ra, khi thì các cuộc khởi nghĩa nông dân với quân triều đình. Bây giờ làng Giai có một người tên gọi Phạm Sinh bị bắt đi lính, theo Phan Phái hầu Nguyễn Phan vào tận Nghệ An đánh phá căn cứ Trình Quang của Lê Duy Mật. Khi quân triều đình tiến gần đến căn cứ thì gặp sự kháng cự quyết liệt của nghĩa quân. Lê Duy Mật đã cho nghĩa quân dùng giậu tre làm thành lũy. Trong lúc quân triều đình đang gặp khó khăn thì Phạm Sinh hiến kế dùng dầu thông, dầu trẩu tẩm vào hàng trăm con mèo, đoạn đốt lửa rồi đánh trống reo hò cho mèo sợ chạy về phía lũy giặc. Vì nóng, vì bị bức thúc đuổi đằng sau, mèo chạy thục mạng, rừng bị bốc cháy, thành lũy bằng dậu tre bị thiêu, nhưng rừng bị cháy, lửa cứ lan rộng dần. Vốn xuất thân từ người lao động, nhìn cảnh lửa thiêu trụi rừng, lại thấy những cây nứa, cây vầu bị quân lính dẫm vỡ thành từng mảnh. Ông liền lấy đan thành những chiếc gầu, lại dạy quân lính làm theo rồi dùng ngay những chiếc gầu tát nước dập lửa. Với công lao ấy, ông được phong tước Quận Công. Vì vậy dân gian gọi ông là "Quận Mèo".
Sauchiến thắng TrìnhQuang, ông xin về sông tại quê hương. Làng Giai đất cao thấp không đều, mưa thì úng, nắng thì hạn (nên có tên là Nội Lãng). Ông đem kinh nghiệm làm gầu dạy cho dân làm theo. Sau cả làng cùng làm, dân làm ruộng ở các nơi đổ về mua gầu. Gầu làngGiai nổi tiếng thành tên "Gầu Giai" (Gầu của làng Giai). Chiếc gầu đã giúp người nông dân đỡ mệt nhọc (do hai người cùng kéo khi tát nước). Dân làng Giai thì nhờ có nghề đan gầu mà khá hơn. Sau khi ông mất, dân làng tôn ông làm tổ nghề, lập miếu thờ. Đền thờ ông nay không còn và chiếc gầu giai nay ít được dùng, nhưng dân làng thì vẫn nhớ về ông tổ nghề Phạm Sinh.
Rõ ràng từ chiếc gầu giai thông dụng phục vụ cho sản xuất nông nghiệp, giảm bớt nặng nhọc cho bà con nông dân trong việc tát nước chống hạn đã trở thành tên làng nghề - làng Giai Lãng.
Cùng với nghề làm gầu tát nước, làng Giai còn có nghề mộc, đi liền với nghề mộc là nghề chạm khắc gỗ, nghề xây dựng, nghề đúc đồng.
Do nền kinh tế chuyển đổi, phong trào hợp tác xã ngành nghề ở vào thập kỷ 1970 - 1980 làng Giai phát triển nghề mây tre đan làm hàng xuất khẩu. Đặc biệt nghề thêu ren một thời là mặt hàng xuât khẩu nổi tiếng. Sản phẩm thêu ren của Minh Lãng đã có mặt ở thị trường Liên Xô cũ và các nước Đông Âu là mặt hàng thêu chủ yếu trên vải. Bức tranh thêu gác chuông chùa Keo (Thái Bình), Ngọ Môn (Huế) được mọi người đánh giá cao về kỹ thuật, kỹ xảo, màu sắc đẹp. Nghề thêu ren cùng với những sản phẩm đã mở hướng đi mới cho nghề thêu Minh Lãng tồn tại đến thập kỷ 90 của một thời vàng son của làng nghề.
Đôi quang giành là sản phẩm của người con gái làng Phụ Phượng, vùng Đa Dực, lộ Long Hưng xưa. Thị nữ Phương Dung đẹp người đẹp nết được tuyển vào cung theo hầu công chúa Huyền Trân tại đất kinh kỳ Thăng Long thời nhà Trần. Sau đó nàng đi cùng công chúa Huyền Trân sang đất Chiêm Thành. Sông trên đất Chiêm Thành, nàng cũng học được nhiều điều lạ, thấy dân Chiêm mỗi khi đi làm, đi chợ, lên nương rẫy họ đều đeo trên vai chiếc gùi đựng được nhiều hàng. Gặp khi trời mưa nước róc rất nhanh. Đất Phụ Phượng quê nàng, dân toàn gồng gánh bằng đôi quang thúng, gặp trời mưa nước đọng gánh thêm nặng. Thế là Phương Dung học được cách làm (đan) được chiếc gùi của người Chiêm. Vật mới làm ra có chiều cao gấp hai lần chiếc thúng, miệng lại thu gọn dễ che đậy, đựng thóc gạo được nhiều hơn, lại dễ mang vác khi di chuyển. Từ chiếc gùi mới làm ra, Phương Dung nghĩ ngay đến đôi quang giành, gọn nhẹ cho công việc đồng áng. Khi trở về quê, Phương Dung dạy cho dân làng An Ninh đan loại "gùi" đã được nàng cải tiến thành chiếc giành cùng với đôi quang giành mang vác gánh gồng nhẹ nhàng, tiện lợi hơn. Dân làng đặt cho nó cái tên Giành và tên ấy dần dần trở thành tên làng Giành. Đến nay có 36 làng Giành trong cả nước đều xuât xứ từ làng Giành quê hương của người thị nữ Phương Dung.
Chuyện kể có một người con gái làng Giành sang lấy chồng ở làng Moi - Mai Xá (sau đổi là Phong Xá) truyền nghề đan giành. Người Mai Xá truyền nghề cho nhau, trước có một số ít người làm, sau cả làng cùng làm... nghề đan giành được duy trì mãi đến những năm gần đây, nay mười nhà còn một nhà làm, đến khi có xe cải tiến (xe kéo) ra đời cùng với phong trào giải phóng đôi vai thì nghề đan quang giành mất hẳn. Vì nghề này người luôn phải cúi, hai tay phải cang ra nên người Mai Xá xưa có dáng đi hơi còng...
Dân Mai Xá cũng lập đền thờ Phương Dung, tôn bà làm tổ nghề thường gọi là lầu Bà Nàng, gần đây có bến tắm của bà, có đường "đòn kê", đường "dùi đục". Dân làng xưa thường tổ chức giỗ bà vào ngày 15 tháng 8 hàng năm.
Công chúa Huyền Trân được dân làng tôn làm thánh mẫu. Thị nữ Phương Dung vì có công truyền nghề được tôn là Đại Vương, là Phúc Thần của làng.
Cả hai thứ "Gầu' và "Giành" chỉ là vật dụng tưởng như tầm thường nhưng nó đã giúp cho người dân nơi thôn dã một thời bớt phần vất vả, là phương tiện hữu hiệu phục vụ cho sản xuất nông nghiệp và trong cuộc sống hàng ngày.








