Sử thi Tây Nguyên, những giá trị văn hóa tinh thần vô giá
Cũng theo các tài liệu lịch sử, sử thi Tây Nguyên đã được biết từ khá lâu, từ thời Pháp thuộc, đầu những năm hai mươi của thế kỷ trước… Nhưng phải đến gần đây, mới được nghiên cứu, khai thác một cách quy mô, sâu rộng hơn… Trong khuôn khổ bài viết có hạn này, xin được nêu lên vài cảm nhận và đôi nét khái quát về sử thi Tây Nguyên hẳn là chưa được đầy đủ hầu được nói cùng bạn đọc yêu mến, tự hào về mảnh đất sinh ra những con người, những tác phẩm vô giá.
Xét ở góc độ vĩ mô, cho đến nay sử thi Tây Nguyên được biết là có đến hơn hai trăm bộ đã được sưu tầm, ghi chép và đang được tổ chức biên soạn. Và số còn lại đã được biết đến nhưng chưa kịp ghi chép cũng có hàng trăm bộ nữa. Đây đích thực là một kho tàng văn học dân gian khổng lồ, một kho lịch sử – văn hóa vô giá có thể so sánh với kho thần thoại Hi – Lạp nổi tiếng. Nhưng điều khác hẳn (so với thần thoại Hi Lạp) là ở dung lượng của nó. Có những sử thi ngắn mà cũng có tới mấy trăm câu (sử thi H’Điêu có 570 câu); có những sử thi khá dài như Đăm San (20077 câu), Khinh Dú (5880 câu), và có những sử thi rất dài, có lẽ dài nhất trong số những sử thi đã được biết ở nước ta cho đến nay là Ot Nrông của người M’nông khoảng 30.000 câu… Có lẽ trong văn học dân gian thế giới, sử thi Tây Nguyên được xếp vào loại có dung lượng đồ sộ. Nhưng điều quan trọng hơn là dù vắn dài, sử thi Tây Nguyên vẫn phản ánh một cách trung thực, sinh động, đời sống sinh hoạt cộng đồng, cuộc đấu tranh vì những ý tưởng nhân văn cao cả mà sự kiện trung tâm là hình ảnh những người anh hùng (các M’tao) qua các cuộc chiến đấu dũng cảm, với tài năng phi thường của mình, đưa nhân dân đến hình thành những cộng đồng mới, đông đúc, giàu mạnh, vinh quang hơn… Một trong những hình ảnh tiêu biểu ấy là Đăm San, người anh hùng của các buôn làng Tây Nguyên mà mối tình của họ (Đăm San và H Nhí) đã là một câu chuyện dài… Có thể nói, Sử thi Tây Nguyên là một bản anh hùng ca hùng tráng nhất trong giàn hợp xướng của một đất nước có hàng nghìn năm lịch sử đấu tranh kiên cường, bất khuất để sinh tồn và phát triển…
Nhưng điều muốn nói ở sử thi Tây Nguyên là ở cách kể độc đáo. Dù văn bản có độ dài hàng trăm, hàng ngàn câu, nhưng vẫn có các cụ già thuộc lòng. Họ là những nghệ nhân, là những “kho tàng sống”, góp phần lưu giữ những giá trị tinh thần vô gí của người Tây Nguyên. Và đêm đêm bên bếp lửa nhà sàn vẫn trầm ngâm kể cho con cháu nghe, thường phải kể hàng chục đêm mới xong… Có lẽ vì được sáng tác theo một loại văn vần đặc biệt của người Tây Nguyên nên người ta dễ thuộc, dễ nhớ đến như vậy. Nhưng còn một lý do quan trọng hơn là tình yêu thiết tha và lòng say mê đối với vốn văn hóa vô giá của dân tộc. Với họ một lần kể sử thi (người Ê đê gọi là kể Khan) là mỗi lần được nhập cuộc, được sống lại cái không khí cuộc sống cộng đồng cách nay hàng trăm năm… Mặt khác, cái khung cảnh huyền ảo của màn đêm, của không gian núi rừng như tạo nên một không – thời gian huyền thoại mà cũng rất thực và sống động lạ thường… Nếu ai đã được nghe kể Khan Ê đê thì hẳn không quên được cái ấn tượng của những đêm Tây Nguyên khi bên bếp lửa bập bùng và bên ché rượu cần giữa nhà rông hay nhà dài, nghệ nhân ngồi giữa kể Sử thi và xung quanh con cháu, buôn làng ngồi nghe như nuốt từng lời, như hòa vào cái không gian huyền ảo, lung linh, lặng thầm cuộc sống.
Ngoài cách kể trên, còn một cách kể độc đáo hơn. Đó là cách người ta nằm kể. Mỗi lần như thế, nghệ nhân nằm trên một chiếc ghế chỉ dành cho khách quý và là chỗ ngồi của giàn cồng chiêng trong các ngày lễ hội lớn. Họ nằm đấy “đầu gối lên một chiếc gối cao, tay gác lên trán, trang nhã và đẹp như một vị tiên”. Và có điều rất kỳ lạ “ông cụ nhắm mắt lại mà kể. Vì sao vậy? Chính ở đây chứa đựng một trong những điều bí ẩn tuyệt diệu nhát của sử thi Tây Nguyên…” (Theo nhà văn Nguyên Ngọc, người có nhiều năm tháng gắn bó với các buôn làng đồng bào Tây Nguyên…)
Như vậy, với những giá trị văn hóa tinh thần vô giá, sử thi Tây Nguyên đã góp phần làm nên diện mạo của các dân tộc giàu bản sắc văn hóa ở một vùng đất huyền thoại và nhiều tiềm năng. Cho nên việc giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa của các dân tộc Tây Nguyên, trước hết là tiếp tục sưu tầm, tổ chức biên soạn cũng như việc bảo tồn, lưu giữ, phát huy tác dụng và truyền lại cách kể Khan hay kể sử thi nói chung là những việc làm cấp thiết và có ý nghĩa cực kỳ to lớn.
Gần đây do tác động của mặt trái nền kinh tế thị trường, hình như trong các buôn làng Tây Nguyên việc đêm đêm các con cháu, buôn làng tụ tập về nhà Rông hay nhà dài, nghe già làng kể sử thi đã thưa vắng. Nhưng điều đáng nói hơn là lớp người kế tục công việc của những nghệ nhân thì hầu như chưa được chú trọng đào tạo, bồi dưỡng bài bản, đúng mực trong khi lớp nghệ nhân – già làng thì ngày một vắng bóng dần.
Tuy nhiên, văn hoá cũng như đời sống xã hội vẫn luôn tiến về phía trước, về phía ánh sáng của chân lý và khát vọng cuộc đời bởi quy luật và động lực tiến hoá của nhân loại. Thực tế vẫn còn những điểm sáng khác nữa trong bức tranh đã dần bừng sáng lên về đời sống tinh thần của người Tây Nguyên. Một trong những điểm sáng ấy là việc tổ chức truyền dạy kể Khan Ê đê trong các buôn làng Tây Nguyên với sự hỗ trợ kinh phí của Viện khoa học xã hội và nhân văn quốc gia và Viện nghiên cứu văn hoá dân gian. Đó là việc UBND huyện CưM’gar (Đắk Lắk) đã phối hợp tổ chức lớp truyền đạt và dạy hát kể Khan cho nhiều học viên, trong đó chủ yếu là các em học sinh, thanh niên của xã Ea Tul… Đây là một việc làm thiết thực, sống động trong việc giữ gìn và phát huy những giá trị văn hóa cổ truyền của cha ông. Được biết đến nay đã có 16 tác phẩm sử thi Tây Nguyên vừa được Viện Nghiên cứu văn hóa và Công ty Phát hành sách TP. Hồ Chí Minh ấn hành. Song song với yêu cầu và kế hoạch đến những năm sau sẽ xuất bản 75 tác phẩm sử thi Tây Nguyên đều tiên thì con số trên còn quá khiêm tốn. Thiết nghĩ các cơ quan hữu quan, các ngành chức năng cần đẩy mạnh hơn nữa việc sưu tầm, nghiên cứu, biên soạn kho tàng sử thi Tây Nguyên đặng quảng bá những giá trị văn hóa tinh thần mà tổ tiên cộng đồng dân tộc Tây Nguyên đã để lại. Hơn nữa nhằm xúc tiến việc đưa sử thi Tây Nguyên vào danh mục các ứng viên để đề nghị UNESCO công nhận là Di sản văn hóa phi vật thể đặc sắc thế giới.