Sốt bại liệt nỗi lo còn đó
Đây là một nỗi lo lớn đối với những người có trách nhiệm: giao lưu với các nước trong khu vực ngày một phát triển, không những qua thư tín, báo đài,... mà còn có những cuộc gặp gỡ trực tiếp giữa những người này và nước khác qua các chuyến du lịch, trong đó có cả nhưng công dân ít tuổi. Trong khi bệnh sốt bại liệt lại lây qua phân của những người mang mầm bệnh (siêu khuẩn poliovirut) nhưng vẫn khoẻ mạnh... bình thường, cho nên rủi ro bệnh được truyền từ những du khách đến từ những nước đang bị bệnh sốt bại liệt hoành hành là điều có thể xảy ra, Vì vậy chúng ta cần cảnh giác cao độ: thực hiện chương trình tiêm chủng mở rộng thật nghiêm khắc và đầy đủ - kể cả đợt uống nhắc lại vaccin ngừa bại liệt, có ý thức phòng ngừa bệnh cụ thể ... để cho con em chúng ta tránh được thứ bệnh quái ác thường để lại nhiều di chứng nặng nề này.
Bệnh sốt bại liệt (SBL) đã xuất hiện từ rất lâu trên trái đất: trên một tấm bia đá từ triều đại Pharaon thứ XVIII của Ai Cập cổ đại (cách nay khoảng 3000 năm), có khắc rõ hình người bị teo chân rất giống di chứng của SBL.
Sốt bại liệt xảy ra khắp thế giới nhưng tập chung ở các nước đang phát triển, nơi tập trung đông dân cư và có điều kiện vệ sinh kém. Ngày 13.5.1988 Tổ chức y tế thế giới ra quýêt định diệt trừ tận gốc bệnh SBL thông qua “chương trình tiêm chủng mở rộng”.
Ở Việt Nam , trước thập niên 90, SBL là một căn bệnh phổ biến đe doạ sức khoẻ trẻ em, nhưng từ khi có chương trình thanh toán SBL (năm 1991) thuộc chương trình tiêm chủng mở rộng, số ca mắc bệnh giảm rõ rệt. Năm 1996, cả nước chỉ ghi nhận được 2 ca SBL, đến khi được công nhận hoàn toàn thanh toán năm 2000.
Bệnh SBL do siêu vi đường ruột Poliovirus gây ra. Siêu vi này có sức kháng cao: có thể sống ở môi trường tự nhiên trong nhiều ngày, tồn tại rất lâu ở nhiệt độ -20 ◦C. Tuy nhiên, chúng bị tiêu diệt ở 55 ◦C trong vòng 30 phút hoặc bằng formaldehyd, nước có chlor và tia cực tím.
Dựa vào tính kháng nguyên, siêu vi bại liệt được chia làm ba týp huyết thanh: týp I Brunehilde thường gặp nhất, týp II Lansing và týp III Léon. Không có miễn dịch chéo giữa các týp huyết thanh, do đó về mặt lý thuyết, một người có thể bị SBL ba lần. Trẻ em dưới 6 tháng tuổi ít bị sốt bại liệt vì được bảo vệ từ kháng thể người mẹ truyền sang. Trẻ bị nhiễm siêu vi từ môi trường tự nhiên sẽ có miễn dịch suốt đời.
Bệnh xảy ra quanh năm. Môi trường là yếu tố quan trọng để người tiếp xúc với siêu vi gây bệnh, cũng như trong việc xuất hiện kháng thể chống siêu vi.
Người là nguồn bệnh duy nhất của siêu vi bại liệt. Người mang mầm bệnh không có triệu chứng lâm sàng, người bị thể nhẹ, thể không liệt là những nguồn lây lan trong cộng đồng. Một số súc vật cũng có thể mang vius bại liệt nhưng không có khả năng truyền sang cho người. Sữa cũng có thể trở thành nguồn lây trong mùa dịch. Ruồi nhặng, gián là những vật trung gian truyền bệnh, là tác nhân vận chuyển siêu vi từ phân người bệnh lây cho người lành.
Đường lay chính là đường tiêu hoá, trực tiếp từ phân - miệng hoặc gián tiếp qua nước, thực phẩm, tay bẩn... do ô nhiễm phân người bệnh. Một số ít trường hợp lây được ghi nhận qua đường hô hấp. Một lượng phân rất nhỏ của bệnh nhân có thể chứa hàng ngàn liều siêu vi gây bệnh. Với những đặc tính như vậy, SBL có khả năng lây lan rất lớn. Hầu hết trẻ tiếp xúc với bệnh nhân trong cùng gia đình và khoảng 87% các trường hợp tiếp xúc hàng ngày có thể bị nhiễm siêu vi bại liệt.
Trẻ em nam và nữ đều có khả năng mắc bệnh như nhau nhưng nam thường bị di chứng liệt nhiều hơn nữ. Riêng ở người lớn, nữ thường bị nhiều hơn nam. Thai nghén, suy giảm miễn dịch, làm việc quá sức, mệt mỏi kéo dài, nạo VA, cắt amygdal, tiêm chích, chấn thương cũng làm tăng độ nhạy cảm của bệnh nhân với siêu vi.
Hiện nay, tình hình dịch bệnh trở lại ở Indonesia sau 10 năm được thanh toán là một hồi chuông cảnh báo về khả năng SBL xuất hiện lại ở nước ta, nhất là khi điều kiện vệ sinh an toàn thực phẩm từ khâu vận chuyển, chế biến cho đến bảo quản chưa được tuân thủ nghiêm ngặt.