Siêu âm tim gắng sức bằng xe đạp lực kế trong chẩn đoán bệnh tim
Nhóm nghiên cứu đã đã tìm hiểu 59 bệnh nhân (BN) đau ngực trái điển hình hoặc không điển hình, tuổi trung bình 58 ± 7,3, có yếu tố nguy cơ của bệnh động mạch vành (ĐMV) và điện tâm đồ không điển hình của bệnh tim thiếu máu cục bộ (BTTMCB), siêu âm tim khi nghỉ không có rối loạn vận động vùng, men tim bình thường. BNN được tiến hành đồng thời siêu âm tim gắng sức (SÂTGS) đánh giá rối loạn vận động vùng thành tim và biến đổi điện tâm đồ trong quá trình gắng sức, chụp ĐMV đối chiếu. Siêu âm tim gắng sức dương tính khi rối loạn vận động vùng mới xuất hiện.
Một ưu điểm của phương pháp SÂTGS là có thể phát hiện được vùng cơ tim thiếu máu và dự đoán được ĐMV tương ứng bị hẹp. Trong nghiên cứu này, động mạch liên thất trái hay gặp nhất và cũng có độ nhạy cao nhất (88,9%). Động mạch mũ có độ nhạy 62,5%, độ đặc hiệu 100%, ĐMV phải có độ nhạy kém nhất, độ nhạy 50%, độ đặc hiệu 100%.
Siêu âm tim gắng sức là kỹ thuật rất an toàn, theo Luciano , có thể thực hiện an toàn với cả BN trên 75 tuổi.
Siêu âm tim gắng sức bằng xe đạp lực kế có độ nhạy, độ đặc hiệu, giá trị chẩn đoán dương tính và âm tính dựa vào rối loạn vận động vùng thành tim tương ứng 84,2%, 97,5%, 94,1%, 92,8%. Kết hợp biến đổi điện tâm đồ và SÂTGS làm tăng độ nhạy của phương pháp lên 94,7%; độ đặc hiệu, giá trị dự báo dương tính và âm tính tương ứng 82,5%, 72%, 97%. Siêu âm tim gắng sức có độ nhạy và độ đặc hiệu trong chẩn đoán nhánh động mạch liên thất trái tương ứng 88,9%, 97,5%; ĐMV phải 50%, 100%; động mạch mũ 62,5%, 100%.








