Sản xuất nông nghiệp hữu cơ: Có chông chênh như tiêu chuẩn GAP?
Xu thế tất yếu
PGS.TS. Nguyễn Văn Bộ, viện trưởng Viện KHKT nông nghiệp Việt Nam cho rằng, sản xuất nông nghiệp hữu cơ (NNHC) trở thành xu thế tiêu dùng hiện đại. Thị trường quốc tế về các sản phẩm NNHC chủ yếu ở Bắc Mỹ, châu Âu và đang mở rộng sang các nước châu Á như Nhật Bản, Hàn Quốc, Trung Quốc… Doanh số tiêu dùng sản phẩm NNHC trên toàn thế giới khoảng hơn 59 tỷ USD/năm, tăng gấp 3 lần so với năm 2000. Việt Nam đang xuất hiện nhiều mô hình sản xuất NNHC xuất khẩu như rau hữu cơ của Công ty Ogranick Đà Lạt, gạo hữu cơ Hoa Sữa của Công ty Viễn Phú ở Cà Mau, trà hữu cơ ở Tuyên Quang, Lâm Đồng.
Theo bà Mayu, trưởng đại diện Tổ chức Seed to Table (Nhật), canh tác hữu cơ ban đầu có thể năng suất thấp nhưng kiên trì canh tác theo hướng bền vững này, năng suất sẽ tăng dần lên. Không phải canh tác hữu cơ đều cho năng suất thấp. Trong canh tác hữu cơ cần đa dạng, tận dụng nhiều tầng sinh thái để đảm bảo thu nhập.
PGS.TS. Phạm Thị Thùy, phó chủ tịch Hiệp hội nông nghiệp hữu cơ Việt Nam cho biết, hiện các sản phẩm nông nghiệp Việt Nam hầu như không kiểm soát được dư lượng hóa chất. Theo ước tính thì 50% lượng phân hóa học cây sử dụng, 50% bay hơi, rửa trôi và đây cũng là nguyên nhân gây ô nhiễm đất, nguồn nước và không khí. Một lượng lớn thuốc BVTV dư thừa gây ô nhiễm ngày càng trầm trọng. Tồn dư thuốc BVTV, kim loại nặng… tác động đến sức khỏe con người và gây hậu quả về sau. Mục đích chính của sản xuất NNHC ở Việt Nam là sản xuất thực phẩm có giá trị dinh dưỡng cao, tăng cường chu kỳ sinh học trong hệ thống trang trại, duy trì và làm tăng độ màu mỡ của đất, tránh ô nhiễm từ canh tác, giảm thiểu nguồn nguyên liệu không có khả năng phục hồi, duy trì bảo vệ môi trường…
Chưa có nơi cấp chứng nhận
Việt Nam hiện có diện tích canh tác NNHC 21.300 ha, bao gồm cả nuôi trồng thủy sản và thu hoạch hoang dã. Đã có sản phẩm hữu cơ xuất khẩu như trà Ecolink 38 tấn, gạo hữu cơ Hoa Sữa của Công ty Viễn Phú 1.000 tấn. Tuy nhiên, những sản phẩm này chưa đáp ứng nhu cầu thị trường vì giá cao 50 - 200% so với sản phẩm không hữu cơ mà chỉ hướng tới xuất khẩu. Vì vậy, việc mở rộng sản xuất NNHC ở Việt Nam còn nhiều khó khăn, nhất là sản phẩm chưa xuất khẩu.
PGS.TS. Thùy cho rằng, người sản xuất NNHC chỉ được phép sử dụng phân bón hữu cơ, phòng trừ dịch hại bằng thủ công hoặc thuốc sinh học nên mất nhiều công sức và khó thực hiện trên diện rộng. Vùng đất trước đây trồng cây lâu năm, sử dụng nhiều phân hóa học, thuốc BVTV… thì canh tác hữu cơ gặp khó khăn những năm đầu, cây còi cọc, nhiều sâu bệnh. Phân hữu cơ và các chế phẩm sinh học có tác dụng chậm hơn phân hóa học, thuốc BVTV nên cây trồng phát triển chậm, công sức lao động nhiều nên giá thành sản phẩm hữu cơ cao nên tiêu thụ gặp khó khăn. Mặt khác, hiện nay ở Việt Nam vẫn chưa có tổ chức nào cấp giấy chứng nhận cho sản phẩm hữu cơ, ngoại trừ việc triển khai ứng dụng PGS (Hệ thống có sự tham gia của các bên liên quan vào việc đảm bảo chất lượng cho sản phẩm - Theo IFOAM) mới khởi đầu từ dự án ADDA. Các sản phẩm xuất khẩu phải dựa vào tổ chức nước ngoài như IMO, JAS, Control Union, SKAL… Chính sách hỗ trợ cho phát triển NNHC chưa có, các tiêu chuẩn cho sản xuất NNHC chưa rõ ràng. Do không dùng hóa chất (thuốc BVTV, phân bón hóa học, tăng trưởng…) nên năng suất cây trồng hữu cơ thấp, hình thức không đẹp, giá cao nên chưa thu hút nông dân cũng như người tiêu dùng.
KS. Từ Thị Tuyết Nhung, trưởng ban điều phối PGS cho biết, canh tác hữu cơ không chỉ đơn thuần thay thế đầu vào vô cơ bằng hữu cơ là sẽ tạo ra sản phẩm hữu cơ. Canh tác hữu cơ phải đảm bảo cây trồng sống, phát triển tự nhiên trong sự hòa hợp của thiên nhiên nên khu vực sản xuất hữu cơ phải đa dạng sinh học (nhiều loài động, thực vật xuất hiện và tồn tại). Có vùng đệm tránh nhiễm hóa chất vùng sản xuất lân cận, không được sản xuất song song cùng một loại cây trong và ngoài vùng sản xuất hữu cơ, không sử dụng hạt giống biến đổi gen, tuân thủ sử dụng phân hữu cơ, quản lý sâu bệnh…
PGS.TS. Thùy đề xuất, để phát triển NNHC ở Việt Nam, trong thời gian tới cần có sự bảo trợ của Nhà nước về chủ trương phát triển NNHC, kinh phí hỗ trợ và cấp chứng chỉ cho sản phẩm hữu cơ (liêm chính, uy tín). Kết nối tốt 4 nhà, tạo chuỗi liên kết tạo ra sản phẩm hữu cơ thật sự đáp ứng nhu cầu thị trường cũng như xuất khẩu. Gắn sản xuất với tiêu thụ, tránh khâu phân phối trung gian làm tăng giá. Phối hợp giữa các bộ ngành liên quan sản xuất, kiểm soát để đảm bảo sản phẩm hữu cơ đúng giá trị thật, không bị xáo trộn hay nhầm lẫn như từng diễn ra với sản phẩm theo tiêu chuẩn GAP để rồi người tiêu dùng nghi ngại, nông dân khó bán và không bán được giá cao vì đầu ra không ổn định, người tiêu dùng chưa tin cậy.
TS. Võ Mai, Phó chủ tịch Hội Làm vườn Việt Nam, người nhiệt tình với các chương trình sản xuất GAP, cũng trăn trở vì khó kết nối được đầu ra, chứng nhận giá cao, hạn sử dụng chỉ một năm, không tăng hiệu quả kinh tế. Và đến nay chưa có được logo chung để nhận dạng đâu là sản phẩm đạt tiêu chuẩn GAP để người tiêu dùng nhận biết.
PGS.TS. Phạm Văn Dư, phó cục trưởng Cục trồng trọt lưu ý, để phát triển thành công NNHC, cần cơ sở pháp lý cũng như xây dựng bộ tiêu chuẩn thực hiện và cấp chứng nhận, cũng như dấu hiệu nhận biết (logo). Chúng ta không đặt mục tiêu sản xuất NNHC quy mô lớn, chỉ hướng tới 5 - 10% sản phẩm nông nghiệp đạt tiêu chuẩn hữu cơ.








