Quốc sách và quyết sách
Đã từ khá lâu chúng ta thường nói đi nói lại giáo dục là quốc sách, thậm chí quốc sách hàng đầu. Nhưng, như bây giờ chắc ai cũng thấy, nó chưa thành được quốc sách, ngược lại đang có rất nhiều vấn nạn, cũng chưa thật sự biết gỡ ra bằng cách nào. Vì sao vậy? Trong nhiều nguyên nhân, rất có thể là ở nguyên nhân này chăng: chúng ta nói quốc sách, nhưng lại không có quyết sách rõ ràng và mạnh mẽ để thực hiện quốc sách đó. Quốc sách là phương hướng, chủ trương chiến lược; quyết sách là biện pháp chiến lược, không có thì phương hướng, chủ trương chiến lược không thể trở thành hiện thực.
Cần một cái giật mình chiến lược
Nhưng lại có câu hỏi ngược lại: tại sao lại không có quyết sách, không có biện pháp chiến lược? Thì lại rất có thể chính là vì chúng ta nói quốc sách là bởi thấy nó “có vẻ” quan trọng quá, chừng nào đó theo sách vở, theo cách nói quen thuộc của thiên hạ, gần như quen miệng mà nói, chứ chưa thật sự thấy nó là yêu cầu sống còn hàng đầu quyết định sự tồn tại và phát triển của sự nghiệp dân tộc. Kinh nghiệm lịch sử cho thấy một đất nước xác định giáo dục là quốc sách hàng đầu là khi đất nước đó hiểu được những chuyển động lịch sử lớn đang diễn ra đưa mình vào những thách thức sống còn - và như bao giờ cũng vậy, đồng thời cũng là những vận hội lớn - đòi hỏi một chọn lựa quyết định, thấm thía nhận ra những bất cập
Thấy, giật mình, một cái giật mình chiến lược, và quyết thay đổi để phát triển. Minh Trị Duy tân của Nhật Bản, Ngũ Tứ Vận động của Trung Quốc, Khai dân trí của Duy tân Phan Châu Trinh, hoặc xa hơn nữa là Đổi mới nước Nga thời Pi-e Đại đế... chính là những cuộc giật mình vĩ đại như vậy. Gần đây hơn thì có thể nghĩ đến kinh nghiệm của Hàn Quốc, ĐàiLoan,Singapore,Thái Lan,Malaysia... Khi nhìn vấn đề giáo dục, đặt vấn đề cải cách giáo dục, có lẽ ở ta chưa có được cú giật mình lịch sử cần thiết đó, cho nên ta nói quốc sách cũng còn là khá hời hợt, và nói rồi để đó, cho trôi đi - dân gian gọi là “chìm xuồng” - lúng túng, ngày càng lúng túng, gỡ cái sai này bằng cái sai khác, hoặc loay hoay đi gỡ những cái lặt vặt, cái ngọn, cái chỉ là biểu hiện bên ngoài, gỡ cái này, chỗ này lại lòi ra rắc rối ở cái khác, chỗ khác, lún sâu mãi, triền miên, chẳng đến đâu cả.
Cách đây một trăm năm, Phan Châu Trinh đã gọi cú giật mình mà ông thống thiết kêu gào dân tộc phải nghe thấy đó là “tỉnh quốc dân hồn”. Ngày nay chúng ta sẽ không thật sự có được giáo dục là quốc sách, quốc sách hàng đầu, nếu không đặt vấn đề giáo dục, cải cách giáo dục trong một tinh thần “tỉnh quốc dân hồn” cũng thống thiết và mạnh mẽ như vậy.
Khi thật sự nhận ra điều đó và đặt vấn đề thật sự đúng như vậy rồi thì nhất thiết phải đi đến quyết sách lớn, ở tầm cỡ quốc gia, để thực hiện cho kỳ được quốc sách đó. Lịch sử cho thấy những quyết sách lớn đó thường phải rất quyết liệt, táo bạo, thậm chí cách mạng. Chúng ta đã nghe nói đến chuyện Pi-e Đại đế cải trang làm thợ tự mình đi học nghề đóng tàu ở phương Tây để hiện đại hóa nước Nga, dời đô lên phía Bắc, xây dựng Saint Petersbourg tráng lệ để mở cửa đón gió văn minh phương Tây. Minh Trị Duy tân Nhật Bản thì cho cả một thế hệ người đi học, và như nhiều người nói, cả một thế hệ cứ đi học, bắt chước về làm đã, rồi đến các thế hệ tiếp sau mới nói đến chuyện cải tiến, sáng tạo; học mọi thứ, học triệt để, đến cùng, không sợ mất cái gọi là “bản sắc”. Hàn Quốc sau đại chiến thứ hai chủ trương học Mỹ đến nơi đến chốn, học mọi thứ, dồn mọi nguồn lực vào học, từ học quyết liệt mà khắc phục mình, bứt phá vượt lên từ tình trạng thậm chí còn tệ hơn ta sau chiến tranh. ĐàiLoan,Singapore,Thái Lan,Malaysia... đều có những quyết sách lớn tương tự.
Đừng tiếp thu nửa vời, ngập ngừng hội nhập
Trong khi đó, về giáo dục, quả thật chúng ta rất chần chừ, học (người ta) không ra học, giữ không ra giữ, chưa học đã sợ “đánh mất mình”, thu mình lại trước những cái mà một số người gọi là “gió lạ ngoại bang”, như người ốm sợ gió, thậm chí còn thà chịu mất vệ sinh ta về ta tắm mãi trong cái ao đục của ta. Cần thẳng thắn nói lại một lần nữa: có lẽ nên xem lại cách nói thành quá quen của chúng ta: “hòa mà không tan”, “hiện đại hóa nhưng phải đậm đà bản sắc dân tộc”. Rất nhiều “mà” và “nhưng”...
Cứ khư khư nói bản sắc mãi chính là biểu hiện của thiếu tự tin vào bản sắc của mình. Chính bằng một lòng tự tin mạnh mẽ mà dân tộc ta đã đi qua cuộc đô hộ ghê gớm một ngàn năm Bắc thuộc và một trăm năm Pháp thuộc mà vẫn nguyên vẹn là mình. Lại học được cái hay của Tàu để tổ chức một nhà nước trung ương tập quyền mạnh đủ sức chống ngoại xâm suốt lịch sử dài; học được cái hay của Tây để tự hiện đại hóa mình về nhiều phương diện.
Tôi hoàn toàn đồng tình với Lê Ngọc Trà, một nhà giáo dục tâm huyết: “Phải mạnh dạn hội nhập, chủ động hội nhập và hội nhập triệt để, đừng khư khư ôm giữ cái ý thức về bản sắc được hiểu một cách siêu hình và nhuốm đầy tinh thần tự tôn dân tộc hay tâm lý tự ti mà nói như André Gide, đó là “loại bản sắc mà người ta sợ đánh mất, không phải vì người ta biết nó là quý giá mà bởi người ta lúc nào cũng tin rằng nó sắp sửa bị mất”(A.Gide: “Về ảnh hưởng trong văn học”.Văn học nước ngoài,số 3-2006, tr.167). Mọi sự tiếp thu nửa vời, ngập ngừng, vừa hội nhập vừa lo sợ đều không mang lại kết quả mong muốn, thậm chí có thể kéo theo những thứ rất tệ hại. Kinh nghiệm Nhật Bản và Hàn Quốc cho thấy dũng cảm hội nhập triệt để một lần sẽ vừa thu nhận được tinh hoa của người ta để phát triển, vừa giữ được bản sắc. Cái còn lại sau cuộc hồng thủy hội nhập ấy chính là bản sắc. Nó gắn với cốt cách sinh tồn của dân tộc mà cốt cách ấy thì chẳng bao giờ sợ mất, cũng như một dân tộc, một nền văn hóa không dễ gì bị hủy diệt” (*).
Một thông tin đáng tin cậy cho ta con số này: năm 1999, 50.000 sinh viên Trung Quốc nhận được giấy phép nhập cảnh để học tại Mỹ. Đến nay, sau bảy năm, con số ấy chắc chắn còn tăng lên gấp nhiều lần. Các trường đại học Mỹ ngày càng đông sinh viên Trung Quốc. Có cảm giác Trung Quốc đang có một quyết sách lớn nào đây trong lĩnh vực này, và đương nhiên là quyết sách ở tầm cỡ quốc gia.
Thử nhìn lại tình hình này ở ta thế nào? Số người đi học ở nước ngoài của ta chưa nhiều, những năm gần đây có tăng lên, nhưng thường chỉ gồm có hai loại: những người thật có chí, xoay xở tự tìm được học bổng mà đi, hoặc những gia đình khá giả lo sợ đối với nền giáo dục quá lạc hậu trong nước quyết gửi con đi tìm một nền giáo dục khác đáng tin cậy hơn. Còn ở tầm quốc gia, chúng ta đã có chủ trương gì về việc này? Theo tôi biết thì chưa. Trong khi đó, theo như phân tích và chứng minh của nhiều chuyên gia, đầu tư cho giáo dục ở ta, kể cả bằng tiền đi vay của nước ngoài, không hề nhỏ (5,6% GDP, cao hơn tỷ lệ bình quân của các nước và vùng lãnh thổ ở châu Á; Nguồn: Sài Gòn Tiếp Thị - số 32 - tháng 8-2006), thừa sức để chúng ta có thể làm một điều gì đó như Trung Quốc đang làm - tất nhiên nếu chúng có tư duy chiến lược quốc gia như người ta.
Tôi không có ý muốn nói rằng việc cho người đi học nước ngoài với số lượng lớn trong một giai đoạn nhất định, hoặc hướng về phương Tây trong cải cách giáo dục phải là quyết sách duy nhất của chúng ta lúc này. Những điều vừa nêu trên chỉ là những ví dụ, dù quả thật là những ví dụ hết sức sinh động, hùng hồn, những kinh nghiệm lớn trong lựa chọn có tính chiến lược của các quốc gia. Ít ra cũng đáng để cho chúng ta nghiền ngẫm, và từ đó mà có tính toán chiến lược của mình.
Trong việc này, vai trò của Bộ Giáo dục và Đào tạo nên là thế nào? Muốn nói gì thì nói, đây là cơ quan tham mưu chủ yếu và cao nhất của lãnh đạo đất nước về giáo dục. Bộ không thể tự tầm thường hóa công việc của mình chỉ trong tổ chức thực hiện các chủ trương giáo dục đang có - mà như ta đang thấy còn bao nhiêu bất cập và lạc hậu - mà phải là nơi chủ chốt đề xuất quyết sách chiến lược về giáo dục cho quốc gia, trên cơ sở một nhận thức sâu sắc về tình thế của đất nước trong thách thức và vận hội của thời đại mới mà dân tộc đang đối mặt.
Đang rất cần một tư duy có tính đột phá chiến lược về vai trò của giáo dục trong phát triển dân tộc của chúng ta hiện nay, từ đó mà có quyết sách sáng suốt và cách mạng. Những việc chống tiêu cực trong giáo dục đang làm là cần thiết, nhưng cần nói rõ đấy không phải là chiến lược. Mà căn bệnh của giáo dục chúng ta hiện nay phải được chữa bằng một phương thuốc có tính chiến lược chứ không phải chỉ bằng các thứ cao đơn hoàn tán chống tiêu cực này nọ.
Nguồn: saigontimes.com.vn31/8/2006