Quan hệ giữa nghiên cứu khoa học và phát triển kinh tế
Giới chính trị gia và doanh nhân thường xem các nhà khoa học như những kẻ “ăn không ngồi rồi”. Mới đây, một giám đốc công ty xây dựng nhỏ của Pháp còn quả quyết rằng việc xây dựng trung tâm công nghệ nanô ở Grenoble là sự lãng phí tiền bạc.
Do vậy, cũng cần tìm hiểu mối liên quan giữa công việc nghiên cứu khoa học ở một quốc gia và sự phồn vinh của nó.
Đánh giá mức độ hoạt động khoa học là công việc khá khó khăn. Một trong những chỉ số của nó là số lượng các ấn phẩm khoa học của một quốc gia tính trên đầu dân. Số lượng tạp chí khoa học trên thế giới dao động từ 35 ngàn đến 100 ngàn, phần lớn mang tính chất địa phương. Tuy nhiên chỉ cần khảo sát trong giới hạn khoảng 6000 tạp chí có liên quan đến khoa học tự nhiên trong danh sách do Viện Thông tin khoa học Philadenfia công bố.
Kết quả khảo sát về mức độ hoạt động khoa học ở 50 quốc gia cho thấy những quốc gia nhỏ luôn dẫn đầu về nghiên cứu khoa học (đặc biệt là trong 10 nước đứng đầu chỉ có 3 nước có dân số trên 15 triệu là Canada, Australia và Hà Lan). Giữa quốc gia đầu tiên (Thuỵ Sĩ) và quốc gia cuối cùng trong danh sách ( Nigeria ) có sự cách biệt khá lớn về số lượng ấn phẩm khoa học. Thuỵ Sĩ có số lượng bài báo khoa học tính trên một triệu dân nhiều gấp 360 lần so với Nigeria .
Về nguyên tắc, sự phồn vinh phản ánh mức độ tích cực trong hoạt động khoa học. Tuy vậy, trên danh sách chúng ta có thể thấy 2 quốc gia lớn là Mỹ và Nhật lại không có tên trong “top ten” nghiên cứu khoa học. Dựa trên các thông số thu thập được từ 50 quốc gia, có thể chỉ ra rằng việc tổng sản phẩm quốc nội tăng gấp 2 lần sẽ khiến cho số lượng ấn bản khoa học tăng gấp 4 lần. Nguyên tắc này không ảnh hưởng tới 6 quốc gia là Na Uy, Mỹ, Nhật, Thuỵ Sĩ, Israel và Thuỵ Điển. Ba quốc gia đầu tiên (Na Uy, Mỹ, Nhật) mặc dù là những nước có nền kinh tế phồn thịnh nhưng mức độ tích cực trong hoạt động khoa học lại thấp. Bởi vậy, ba quốc gia này buộc phải sử dụng những kết quả nghiên cứu khoa học của các quốc gia khác để phát triển kinh tế. Ba quốc gia tiếp theo ( Thuỵ Sĩ, Israel, Thuỵ Điển) có mức độ tích cực trong hoạt động khoa học cao, do đó đây là những quốc gia mà khoa học có nhiều đóng góp cho nền kinh tế.
Từ mối quan hệ nêu trên còn có thể rút ra một kết luận quan trọng nữa: Với tổng sản phẩm quốc nội thấp thì không thể xuất hiện bất kỳ công trình khoa học có nghĩa nào. Những quốc gia kém phát triển, chủ yếu là ở châu Phi và Nam Mỹ, không có khả năng chấn hưng nền khoa học nếu như không có sự giúp đỡ từ bên ngoài.
Những nguyên tắc và xu hướng được giới thiệu trên đây dường như đã không biến đổi trong suốt 20 năm qua, tuy nhiên vị trí của từng quốc gia có thể thay đổi. Chẳng hạn trong 10 năm trở lại đây, Trung Quốc trở thành quốc gia hàng đầu về số lượng xuất bản ấn phẩm khoa học (số lượng ấn phẩm tăng hơn 5 lần). Thổ Nhĩ Kỳ cũng không chịu thua kém. Ba Lan trong vòng 10 năm đã tăng số lượng ấn phẩm lên gấp đôi. Trong khi đó, Pháp chỉ tăng được 30% số lượng ấn phẩm (so với năm 1996)
Ở cực thứ hai là Nga – một trong những quốc gia có số lượng ấn phẩm giảm. Xu hướng tương tự cũng xuất hiện ở Ucraine, Bialorus và Zimbabwe . Nguyên nhân của sự yếu kém trong hoạt động khoa học của Zimbabwe là làn sóng di cư của các nhà khoa học nước này sang Nam Phi. Tại Nga và một số quốc gia khác, nguyên nhân cũng tương tự nhưng đó là những cuộc di cư vì lý do kinh tế – chứ không phải vì lý do chính trị.
Mười năm về trước, Trung Quốc và Thổ Nhĩ Kỳ xuất phát từ nền tảng khoa học rất thấp và không ai nghĩ rằng họ sẽ là “mối đe doạ” đối với các quốc gia phát triển về khoa học, mặc dù Thổ Nhĩ Kỳ đã bắt đầu ngang bằng với các quốc gia trung bình như Litva, Ba Lan và Slovakia. Nếu như xu hướng phát triển hiện thời vẫn tiếp tục trong vòng 2 thập kỷ nữa, thì sẽ không loại trừ khả năng các nhà khoa học Đức sẽ đổ dồn sang Thổ Nhĩ Kỳ để làm việc theo hợp đồng thời vụ.
Nguồn: Science, gdtd.com.vn, số 111,16/09/2006








