Quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa là lãnh thổ thiêng liêng của Việt Nam
Quần đảo Hoàng Sa gồm hơn 30 hòn đảo, đá, cồn, san hô, bãi cát, chiếm một diện tích khoảng 15 nghìn km 2. Hòn đảo gần nhất cách đảo Lý Sơn (Việt Nam) khoảng hơn 220km, cách đảo Hải Nam (Trung Quốc) gần nhất cũng khoảng 260 km. Quần đảo Trường Sa nằm ở vùng biển Nam Việt Nam, khống chế một vùng rộng lớn ở phía Đông và Nam biển Đông. Quần đảo Trường Sa rộng lớn hơn quần đảo Hoàng Sa gồm 100 đảo, bãi đá, san hô lớn nhỏ, diện tích toàn khu vực khoảng 16 vạn km 2. Hòn đảo gần đất liền nhất là đảo Trường Sa cách Vịnh Cam Ranh (Việt Nam) hơn 450km, cách Hòn Hải (Việt Nam) 350km. Hòn đảo gần nhất cách đảo Hải Nam (Trung Quốc) khoảng hơn 1.150km và cách Đài Loan khoảng 1.760km.
Trong những thế kỷ trước, quần đảo Trường Sa được gộp chung với quần đảo Hoàng Sa . Người Việt Nam gọi là Bãi Cát Vàng, Hoàng Sa, Đại Trường Sa, Vạn Lý Trường Sa. Các Nhà nước phong kiến Việt Nam khám phá hai quần đảo này ít nhẩt khoảng thế kỷ XV. Theo các thư tịch cổ, thế kỷ thứ XVII, Nhà nước Việt Nam đã chiếm hữu và làm chủ thực sự đối với cả hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Điều này được ghi rõ trong Tuyển tập Thiên nam tứ chí lộ đồ thưcủa Đỗ Bá viết vào thế kỷ thứ XVII. Danh từ “Tuyển tập” cho ta thấy tài liệu này được thu thập từ nhiều tài liệu trước đó nữa. Trong quyển này, Đỗ Bá đã tả những quần đảo này rất chính xác và xác nhận rằng Chúa Nguyễn đã lập đội Hoàng Sa để khai thác từ thế kỷ XVII. Theo một số nhà sử gia, mặc dù quyển sách của Đỗ Bá được viết vào thế kỷ XVII (vào năm 1686) nhưng lại có những đoạn được trích từ phần thứ ba của quyển Hồng Đức bản đồ- Hồng đức là tên hiệu của vua Lê Thánh Tông (1460 – 1497). Như vậy, Việt Nam đã khám phá hoặc biết tới những đảo này ít ra cũng từ thế kỷ XV. Danh từ Bãi Cát Vàng chứng tỏ rằng những đảo này đã được người Việt Nam ít học nhưng hiểu biết nhiều về biển khám phá và khai thác từ lâu trước khi chính quyền Chúa Nguyễn tổ chức khai thác hòn đảo. Dân Việt Nam đã sinh sống ở đó nhiều thế kỷ và chính quyền nhà Nguyễn từ thế kỷ XVII đã biết tổ chức khai thác đảo có hệ thống. Những yếu tổ này, nhất là sự khai thác của nhà nước từ thế kỷ XVII qua nhiều năm đã tạo nên từ thời đó một chủ quyền lịch sử cho Việt Nam trên những hòn đảo này.
Cùng với Tuyển tập Thiên Nam tứ chí lộ đồ thư, các bộ sử chính thức của Nhà nước phong kiến Việt Nam như sau: Đại Nam thực lục tiền biên(1844); Đại Nam thực lục chính biên(1848); Đại Nam thống nhất chí(1882) và các sách của nhiều nhà khoa học danh tiếng như: Phủ biên tạp lụccủa Lê Quý Đôn; Lịch triều hiến chương loại chícủa Phan Huy Chú; Việt sử cương giám khảo lượccủa Nguyễn Thông đều nói đến Hoàng Sa và Trường Sa. Các sách trên đều khẳng định Bãi Cát Vàng, Hoàng Sa, Đại Trường Sa hoặc Vạn Lý Trường Sa từ lâu đã là lãnh thổ của Việt Nam.
Quyển Phủ biên tạp lụccủa Lê Quý Đôn (1776) chép rõ đảo Đại Trường Sa (tức Hoàng Sa và Trường Sa) thuộc phủ Quảng Ngãi: “Xã An Vĩnh, huyện Bình Sơn, phủ Quảng Ngãi, ở ngoài cửa biển có núi gọi là Cù Lao Ré, rộng hơn 30 dặm, có phường Tư Chính, dân cư trồng đậu, ra biển bốn canh thì đến, phía ngoài nữa lại có đảo Đại Trường Sa, trước kia có nhiều hải vật và những hoá vật của tàu bị đắm lập đội Hoàng Sa để lấy, đi ba ngày đêm mới tới, là chỗ gần xứ Bắc Hải” Lê Quý Đôn, Phủ biên tạp lục, Tập 2, Nxb KHXH, H,1977, tr.116. Cũng trong Phủ biên tạp lụcđã chỉ rõ cách Chúa Nguyễn tổ chức khai thác hai quần đảo một cách hệ thống: “Trong đảo có bãi cát vàng, dài chừng 30 dặm, đất bằng phẳng rộng rãi, nước trông thấu đáy. Bên đảo thì yến sào nhiều vô số; các loài chim kể có hàng nghìn vạn, thấy người thì vây họp xung quanh không tránh. Bên bãi rất nhiều vật lạ, như ốc hoa, có thứ gọi là ốc tai tượng, to như cái chiếu, dưới bụng có hột to như ngón tay, sắc đục không bằng hạt châu của trai, vỏ có thể tách ra thành phiến, lại có thể nấu vôi nề nhà; có thứ gọi là ốc Xà Cừ có thể dùng để trang sức đồ dùng; có thứ gọi là ốc hương; Thịt các giống ốc đều có thể muối mắm và nấu ăn được… Có vật tên là hải sâm, tục gọi là con đột bột, bơi lội bên bãi bắt lấy và lấy vôi xát qua, bỏ ruột mà phơi khô, khi ăn dùng nước cua ngâm rồi cạo đi ăn như thịt cá heo mà ngon hơn. Các tàu thuyền của người Phiên gặp bão hay đến dựa vào đảo ấy. Họ Nguyễn trước kia đặt đội Hoàng Sa 70 suất, lấy người xã An Vĩnh sung vào thay phiên nhau, mỗi năm cứ tháng 2 thì nhận giấy sai đi, đem theo 6 tháng lương, ngồi năm chiếc thuyền câu tư mà ra biển, ba ngày ba đêm mới đến đảo ấy để ở. Mặc sức kiếm lượm, bắt cá và chim mà ăn. Đồ vật của tàu lượm được là tiền bạc, hòn bạc, đồ đồng, khối thiếc, chì, súng, ngà voi, sáp ong, chăn nệm, đồ sứ. Lại lượm mai đồi mồi, mai hải ba, hải sâm, hột ốc hoa khá nhiều. Cứ kỳ tháng 8 thì về cửa Eo, đến thành Phú Xuân để nộp, cần xét để định hạng xong thì mới cho bán “Tri thức Đông Nam Á, Nxb CTQG, H, 2008, tr.808 – 809.
Qua đó cho thấy, về tổ chức hành chính từ thế kỷ XVII cả hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa đã được các Nhà nước phong kiến Việt Nam phiên thuộc vào phủ Quảng Ngãi. Với tư cách là người làm chủ, liên tục trong nhiều thế kỷ Nhà nước phong kiến Việt Nam đã tổ chức quản lý, khai thác, điều tra, khảo sát địa hình, địa vật, dựng miếu, trồng cây, cắm mốc… trên hai quần đảo này. Hoạt động của đội Hoàng Sa và Bắc Hải được tổ chức có hệ thống, đều đều mỗi năm ra đảo công tác 8 tháng. Các thuỷ thủ do nhà nước tuyển chọn, hưởng bổng lộc của nhà nước, giấy phép và lệnh đi do nhà nước cấp. Các bộ sử như: Lịch triều hiến chương loại chí, Đại Nam thực lục tiền biên, Đại Nam thống nhất chí, Hoàng Việt địa dư chíđều có đoạn ghi chép Nhà nước phong kiến Việt Nam tổ chức khai thác hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa cùng các đảo khác nữa. Trong đó: đội Thanh Châu phụ trách các đảo ngoài khơi Quy Nhơn lấy chim tổ yến; đội Hải Môn hoạt động ở các đảo Phú Quý; đội Hoàng Sa chuyên ra quần đảo Hoàng Sa; sau đó lại tổ chức đội Bắc Hải thuộc đội Hoàng Sa nhưng phụ trách các đảo xa ở phía Nam như quần đảo Trường Sa, Côn Lôn và các đảo nằm trong vùng Vịnh Thái Lan thuộc chủ quyền của Việt Nam.
Kế tục công việc của các Chúa Nguyễn và nhà Tây Sơn, từ khi nắm chính quyền (1802) các Vua nhà Nguyễn không chỉ sử dụng đội Hoàng Sa, đội Bắc hải để khai thác mà còn đặc biệt quan tâm xây dựng các dấu tích nhằm củng cố chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Sách Đại Nam thực thực lục chính biênghi chép rõ các vua liên tục cử quan quân, phái binh quyền đi Hoàng Sa để nghiên cứu đường biển, đo đạc thuỷ trình, vẽ bản đồ, trồng cây làm dấu cho người đi biển, dựng miếu, lập bia… Vị vua đầu tiên của nhà Nguyễn vua Gia Long đã củng cố thêm quyền lịch sử của Việt Nam bằng cách chính thức chiếm hữu hai quần đảo. Năm 1816 (năm Bính Tý, năm thứ 15 đời vua Gia Long) vua đã ra lệnh cho đội Hoàng Sa và hải quân của triều đình ra đảo Hoàng Sa xem xét, đo đạc thuỷ trình và cắm cờ trên đảo Hoàng Sa để biểu tượng cho chủ quyền của Việt Nam. Sau đó hoạt động này đã trở thành lệ thường hàng năm và được ghi trong tờ tâu của Bộ Công dâng lên vua Thiệu Trị (1852). Liên tục trong các năm 1833, 1834, 1835, 1836 vua Minh Mạng lệnh cho Bộ Công cử người ra Hoàng Sa để dựng miếu, lập bia, trồng nhiều cây cối, đo đạc đường biển, vẽ bản đồ. Bộ Đại Nam thực lục chính biên, quyển thứ 104 viết: vào năm 1833, vua bảo Bộ Công rằng: Trong hải phận Quảng Ngãi, có một dải Hoàng Sa, xa trông trời nước một màu, không phân biệt được nông hay sâu. Gần đây, thuyền buôn thường (mắc cạn) bị hại. Nay nên dự bị thuyền mành, đến sang năm sẽ phái người tới đó dựng miếu, lập bia và trông nhiều cây cối. Ngày sau cây cối to lớn xanh tốt, người dễ nhận biết, tránh khỏi được nạn mắc cạn. Đó cũng là việc lợi muôn đời.
Những chứng cứ lịch sử và pháp lý trên khẳng định các nhà nước phong kiến Việt Nam đã chiếm hữu thực sự và liên tục tổ chức thực hiện thực sự chủ quyền của mình đối với hai quần đảo này từ nhiều thế kỷ. Hai đội Hoàng Sa và Bắc Hải hoạt động cho đến khi Pháp xâm lược Việt Nam . Từ thế kỷ XVII (có thể từ thế kỷ XV hoặc hơn trước nữa), từ thời Chúa Nguyễn trải qua các triều đại vua nhà Nguyễn trong 3 thế kỷ, hai đội này đã có nhiều hoạt động khai thác, quản trị và biên phòng đối với hai quần đảo. Đây là những hoạt động của nhà nước, do nhà nước tổ chức. Những hoạt động này kéo dài suốt 300 năm mà không có một sự phản đối nào của bất cứ một quốc gia nào. Từ thời đó, nhà Nguyễn cũng đã thấy được trách nhiệm quốc tế của mình và cho trồng cây trên đảo để các thuyền bè khỏi bị đắm và mắc cạn. Rõ ràng đây là những sự hành xử chủ quyền của một quốc gia trên lãnh thổ của mình. Điều đó cũng có nghĩa, Việt Nam đã chiếm hữu hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa khi chúng chưa thuộc chủ quyền của bất cứ quốc gia nào.
Như vậy, hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa thuộc chủ quyền của Việt Nam được xác định trên hai cơ sở: thứ nhất, quyền lịch sử bắt nguồn từ sự sử dụng và chiếm hữu lâu đời một lãnh thổ vô chủ dưới các thời Chúa Nguyễn, thể kỷ XVII. Cở sở thứ nhất cũng đã đủ điều kiện để xác lập chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa; quyền này lại được củng cố thêm khi các vua nhà Nguyễn đã chính thức chiếm hữu đảo. Đến nay, Cù Lao Ré, tên cũ của huyện đảo Lý Sơn mãi vẫn còn là bảo tàng sống về Hoàng Sa và Trường Sa.
Từ những căn cứ sử liệu và những công trình nghiên cứu cá nhân cảu các học giả, chúng ta hoàn toàn khẳng định quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa là của Việt Nam, là một phần lãnh thổ thiêng liêng của Việt Nam .