Quả phật thủ có nhiều công dụng quý
Cây phật thủ có tên khoa học Citrus medica, var. sarcodactylis (Noot) Swingle, họ cam quít (Rutaceae). Cây cao 2 – 3m, có gai như cây chanh, cây bưởi. Có tên phật thủ vì vỏ ngoài có những múi chạy dài dọc quả, đến phía dưới tách ra như những ngón tay. Với tiềm thức tâm linh, con người nghĩ đến đó là tay phật.
Thu hoạch quả chín vào mùa đông. Quả tươi không ăn được vì không khoái khẩu. Làm mứt phải qua nhiều công đoạn. Sau khi thái lát, phơi khô, hãm nước sôi như trà để uống. Quả dùng làm thuốc phải hái khi vỏ còn xanh hoặc ngả vàng, thái lát dọc phơi khô (phật thủ phiến). Để càng lâu càng tốt gọi là trần phật thủ (trần là lâu năm). Chúng dễ bị mốc nên phải phơi khô, bảo quản khô kín.
Thân, lá, vỏ quả đều chứa tinh dầu, chứa hesperidin naringosid có tác dụng làm bền mao mạch chống chảy máu. Rễ chứa xantiletin, nordentalin. Cây phật thủ như các cây trong họ cam quít (chanh, bưởi, cam, quít...) thường chứa nhiều hoạt chất như lisnonoid, hesperosid có tác dụng chống dị ứng, chống độc, chống chảy máu, chống viêm, chống ung thư... Tinh dầu trong vỏ quả của họ này đều có tác dụng kháng khuẩn, kháng virus, kháng nấm, giãn cơ trơn của phế quản, ruột, chống co thắt, giảm ho, long đờm. Trong quả phật thủ có limettin, citropten, diosnin, hesperidin. Thí nghiệm trên chuột thấy tinh dầu phật thủ làm giảm hoạt động và kéo dài thời gian ngủ của chuột. Tinh dầu càng nhiều càng thơm và tác dụng dược lý càng mạnh.
Theo Đông y, phật thủ tính ôn, vị cay, đắng, chua, vào kinh tỳ, phế. Tính năng điều khí toàn cơ thể hòa trung, kiện vị, giảm ho, long đờm. Ngày dùng 3 – 6g dạng bột và thuốc sắc.
Chủ trị các bệnh ở gan, dạ dày, tức ngực, khó thở, đầy bụng, buồn nôn, tiêu hóa kém, ho đờm nhiều. Người nhiệt, ấm hư không nên dùng.
Một số bài thuốc thường dùng
Chữa bệnh viêm phế quản mãn tính: Phật thủ tươi 1 – 2 quả thái nhỏ để vào 1 cái bát to với lượng đường mạch nha vừa dùng, đun cách thủy cho đến khi phật thủ chín nhừ. Dùng 3 tuần, mỗi lần ăn một thìa to.
Chữa ho suyễn - ho nhiều đờm khó thở: Quả phật thủ 9 – 15g, vỏ củ gừng (khương bì) 5 – 9g, lá hoắc hương 9g. Sắc lấy nước uống.
Chữa đau gan và dạ dày (can, vị khí thống): Quả phật thủ tươi 10g, thanh bì 6g, sắc nước uống. Hoặc hoa phật thủ 10g, hương phụ 10g, ô dược 6g, sa nhân 15g, bạch thược 15g, cam thảo 3g. Sắc nước uống.
Chán ăn, không tiêu, ngực sườn trướng đau, buồn nôn: Quả phật thủ 30g, rượu 5 lít. Phật thủ thái nhỏ để ráo nước ngâm rượu. Cứ 5 ngày quấy đều một lần. Sau 5 ngày có thể lấy ra uống. Mỗi lần 1 chén hạt mít (chén, ly) bé 15 – 20mg vào trước bữa cơm chiều.
Chữa tiêu hóa không tốt, không tiêu: Quả phật thủ 50g thái, hong gió cho khô, xuyên tiêu 12g, sa nhân 12g, tiểu hồi hương 12g. Tất cả tán bột hòa nước sôi để ấm rồi uống. Ngày 2 lần.
Đau bụng do lạnh bụng: Phật thủ khô 15g, gạo rang 30g. Sắc uống ngày 3 lần.
Ợ hơi: Vỏ quả phật thủ tươi ướp đường nhần ít một rồi nuốt.
Đau bụng kinh: Phật thủ tươi 30g, đương quy 6g, gừng tươi 6g, rượu gạo 30g, nước vừa đủ. Sắc uống.
Bạch đới ra nhiều: Phật thủ 30g, lòng lợn non dài khoảng 1m. Ninh chín ăn liền 5 – 7 ngày.
Chữa say rượu: Phật thủ tươi 30g. Sắc nước uống.
Viêm loét dạ dày hành tá tràng: Rễ cây phật thủ 30g nấu với dạ dày lợn lượng vừa đủ dùng cho chín để ăn.
Viêm aminđan: Hoa phật thủ 10g, hoa hồng 10g, hoa tường vi 10g, hoa mai 6g. Sắc nước ngậm, súc miệng, hoặc uống.