PSA trong chuẩn đoán ung thư tuyến tiền liệt
Ngày càng nhiều trường hợp ung thư được phát hiện ở gian đoạn khu trú tại chỗ tức là có thể chữa khỏi.
* Dấu hiệu lâm sàng : Trong đại đa số trường hợp ung thư tuyến tiền liệt không có triệu chứng. Ung thư có triệu chứng có nghĩa ung thư ở giai đoạn tiến triển.
Dấu hiệu tại chỗ: Chủ yếu là rối loạn tiểu tiện: đái khó, đái dắt (đái láo), đái không kìm được, bí đái, đái máu đầu tiên;
Dấu hiệu tại vùng:
Mạch chậu bị đè: viêm tĩnh mạch huyết khối chi dưới; phù bạch huyết;
Biểu hiện di căn: đau ở xương, dấu hiệu chèn ép tuỷ hoặc rễ thần kinh;
Tắc nghẽn niệu quảndo tam giác bàng quang bị xâm chiếm: đau thắt lưng, giãn nỏ đài - bể thận, suy thận.
* Khám lâm sàng : Thăm dò hậu môn: Khám nghiệm này là chủ yếu, nhưng lại chủ quan. Cần thực hiện đúng bài bản của khoa lâm sàng: sau khi đi tiểu, tức phía trước tuyến tiền liệt không còn đệm nước ngăn chặn, người bệnh nằm ngửa, hai đùi co cứng lên; người khám sử dụng hai tay: một ngón tay trong hậu môn sờ tuyến tiền liệt, bàn tay kia ấp trên xương mu cốt đè bàng quang xuống, để ngón tay trong hậu môn sờ tìm tuyến tiền liệt một hòn nhỏ. Hòn nhỏ này: riêng lẻ, cứng, không đều, không đau, có thể làm bíên dạng, méo mó thuỳ của tuyến. Nếu bắt gặp được hòn nhỏ, cần đánh giá coi chỉ có 1 thuỳ hay cả hai bị thương tổn, hoặc bệnh lý đã vượt ra khỏi bao tuyến, đến túi tinh hay bọc chứng cả chậu. Khám bổ sung cho đầy đủ: bầu bàng quang, các dấu hiệu vùng (ghi ở đoạn trên), hạch Troisier, cơ quan sinh dục ngoài (dương vật và thể tích tinh hoàn).
* Định lượng kháng nguyên đặc thù tuyến tiền liệt: PSA(1)
- Glucoprotein chỉ có ở loài người do tế bào biểu mô tuyến tiền liệt tiết ra; thời gian bán huỷ ngắn: 2 đến 3 ngày.
- Chỉ diện sinh học trong huyết thanh đặc thù tuyến tiền liệt nhưng không phải chỉ diện ung thư tuyến tiền liệt.
- Cần được xác định lượng chỉ tại một phòng xét nghiệm, để có những kết quả so sánh được, vì lẽ kết quả khác xa nhau tuỳ phương pháp áp dụng để xét nghiệm. ở một bệnh nhân giữa 2 lần xét nghiệm, khoảng cách có thể đến 30 % giá trị kết quả.
PSA cao: khi có viêm tuyến tiền liệt, khi có va chạm đến tuyến: thông bàng quang, soi bàng quang, xoa bóp hay sinh thiết tuyến tiền liệt. Đợi 3 - 4 tuần sau mới định lượng PSA.
PSA thấpđến 50% do thuốc 5 alpha reductaz (Avodart, Chibro Pros-car).
Trong ung thư tuyến tiền liệt: thiếu tính chất đặc thù. Xác suất có ung thư tăng với tỷ lệ của PSA: đạt 100% nếu nồng độ trên 100mg/ml. - 15% trường hợp ung thư thật sự có PSA bình thường. - 25 đến 30% bệnh nhân do tỷ lệ bất thường PSA được sinh thiết xác định bị ung thư.
Làm cách nào để phân biệt tốt các bệnh nhân có xác suất ung thư cao?
- Tỷ số PSA tự do/PSA toàn phần: định lượng với mục tiêu thứ hai khi giá trị PSA giữa 4 và 10mg/ml. Tỉ số càng nhỏ, nguy cơ ung thư càng cao: nếu tỉ số dưới 10%, xác suất ung thư là 56%; nếu tỉ số trên 25%, xác suất là 8%. Có vấn đề nan giải là các giá trị trung gian và một ngưỡng đơn nhất.
- Tuỳ tuổi đời người bệnh: giá trị quy chiếu là như sau: dưới 2,5mg/ml giữa 40 và 50 tuổi; dưới 3,5mg/ml giữa 50 và 60 tuổi; dưới 4,5mg/ml giữa 60 và 70 tuổi; dưới 6,5mg/ml sau 70 tuổi.
Chẩn đoán chính xác
Chỉ bằng giải phẫu bệnh học: sau sinh thiết tuyến hoặc thủ thuật cắt nội soi.
(1) PSA: Prostate specific antigen.
(2) Troisier: Hạch bạch huyết trên xương đòn trái, tăng thể tích thứ phát sau một ung thư: dạ dày, ruột.